Phân Tích tích việc csVN đàn áp tôn giáo đối với Công Giáo VN như thế nào

 
 

Phân tích sự đàn áp Của Đảng Cộng Sản Việt-Nam Đối với Tự Do Tôn Giáo của Giáo Hội Công Giáo (Phần I)

Lm. Trần Xuân Tâm
LTS:

Chúng tôi xin mạn phép đăng lại Bản “An Analysis of the Vietnamese Communist Party’s suppression of the Catholic Church” bằng tiếng VN của Lm. Phaolô Trần Xuân Tâm thuộc TGP Hoa Thịnh Đốn nhân ngày Lễ Tạ Ơn năm 2002. Bản Phân tích bằng tiếng Anh này chăc chắn đã được chuyển vào Toà Bạch Ốc cho Chính Quyền của TT George W Bush và Bộ Ngoại Giáo Hoa Kỳ. Tuy nhiên từ mấy năm qua, BNG Hoa Kỳ vẫn cho điểm tốt CSVN về nhân quyền và tự do tôn giáo thì thật là một điều lạ.
Những gì TNGD nói về hệ thống tôn giáo quốc doanh tại Việt-Nam từ trước đến nay đều bị chụp mũ tiếng 4C “Chống Cha Chống Chúa”. Xin mời quý vị đọc để tìm hiểu thêm.


Trong bài phân tích này:
* Trước tiên, người viết sẽ trình bày lý do và mục đích tại sao Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN [1] ) đàn áp tự do tôn giáo của Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam.
* Kế đến là phần nói về chi tiết ba chiến lược mà Đảng dùng để đàn áp tự do tôn giáo của Giáo Hội vì mục đích vừa nói.
* Kết thúc bài phân tích là việc giải thích đâu là hậu quả có tác dụng hủy hoại nhất mà những chiến lược đàn áp này gây ra cho người Công Giáo ở Việt Nam.

[1] Như sẽ thấy trong bài phân tích, tôi dùng “ĐCSVN” thay vì những danh từ khác như “chính quyền CSVN”.” nhà cầm quyền CSVN”, hay “Công an CSVN”, v.v… Lý do đơn giản và hiển nhiên thôi: Như là một thứ độc tài toàn trị muốn có quyền lực tuyệt đối, ĐCSVN điều khiển và sở hữu mọi quyền lực và quyến hành trong nước. Tòa Án tối cao, QH, CP, Lực Lượng Võ Trang, CA, v.v.. chỉ là những dụng cụ hay những hình thức khác nhau của quyền lực toàn trị của đảng. 

 

I.- Lý do và mục đích tại sao ĐCSVN đàn áp tự do tôn giáo của Giáo Hội CG tại VN.

Là một chế độ toàn trị tuyệt đối, ĐCSVN không bao giờ xem ích lợi của nhân dân và đất nước như là mục đích của họ. Mục đích duy nhất và không thay đổi của Đảng là duy trì và bành trướng quyền lực, một khi nó đã được thiết lập. Mọi cái khác chỉ được Đảng dùng như là những phương tiện hay tối thiểu phải bị Đảng làm mất hết khả năng gây ra bất kỳ cản trở nào cho mục đích đó. Ngay cả ích lợi của nhân dân, độc lập và thống nhất của đất nước cũng không là luật trừ, phương chi là đời sống và những hoạt động của Giáo Hội Công Giáo tại VN. Tuy nhiên, từ kinh nghiệm bốn thập niên đối phó với Giáo Hội, Đảng biết rất rõ rằng bách hại kiểu Stalin, dù được dùng nhiều nhất và mạnh mẽ nhất trong quá khứ, đặc biệt đối với Giáo Hội Công Giáo ở miền Bắc, vẫn không bao giờ tiêu diệt được Giáo Hội, để nhờ đó một lần duy nhất Đảng loại đi hết mọi trở ngại mà Giáo Hội có thể gây ra cho quyền lực của mình .
Một khi những tiền đề đó được hiểu, thì dễ dàng hơn cho chúng ta thấy rằng:
(1) Điều mà ĐCSVN cần làm đối với Giáo Hội không phải là xóa sạch Giáo Hội nhưng là đàn áp tự do tôn giáo của Giáo Hội ;
(2) Đảng làm vậy, không phải vì Đảng sợ hay nghi ngờ rằng Giáo Hội , nếu được phép tự do, có thể sẽ theo đuổi và gây ra một vài bất lợi cho nhân dân và đất nước VN. Những cái gọi là “sai lầm” của Giáo Hội chẳng hạn như những học thuyết “duy tâm”, “phản khoa học” của Giáo Hội [2] , hay những cái gọi là “tội ác” của Giáo Hội ví dụ như những hoạt động quá khứ “phản cách mạng” của Giáo Hội cộng tác với chủ nghĩa thực dân Pháp, v.v. .., thường bị Đảng khai thác và tuyên truyền như là những lý do hàng đầu biện minh cho việc Đảng đàn áp tự do của Giáo Hội .

[2] Từ đầu thập niên 50 cho đến cuối thập niên 80, sự đối lập không thể dung hòa giữa ý thức hệ Cộng sản vô thần và đức Tin Công Giáo rõ ràng đã là một trong những lý do của sự đàn áp. Tuy nhiên, bắt đầu từ thập niên vừa qua, bởi vì đa số đảng viên ĐCSVN, kể cả giới lãnh đạo, không còn tin vào ý thức hệ này nữa, cho nên sự đối lập về ý thức hệ chấm dứt là một lý do trong thực tế. 

 

Tuy nhiên, phân tích cho cùng, chúng chủ yếu che đậy cho một lý do sâu xa hơn và thực tế hơn: một Giáo Hội nếu được phép có tự do sẽ cấu thành một lực lượng tinh thần và xã hội cực kỳ nguy hiểm đối với sự độc tài toàn trị của ĐCSVN. [3]

[3] cũng tương tự, dầu lý do viện dẫn có khác nhau, vụ Cải cách Ruộng đất năm 1956, vụ án Nhân văn Giai phẩm cuối thập niên 50, và vụ án chủ nghĩa Xét lại chống Đảng vào cuối thập niên 60 đều nhằm phục vụ cùng một mục đích ở hậu trường. Chúng đều nhằm củng cố quyền lực toàn trị của ĐCSVN bằng cách khủng bố nông dân, văn nhân thi sĩ, và chính nhiều thành viên của Đảng, và nhờ vậy mà nghiền nát bất kỳ tiềm năng đối lập nào ở nơi những loại người này. 

 

Một tự do như thế sẽ nguy hại cho bản tính toàn trị cộng sản. Nếu điều này đã đúng trong quá khứ, thì nó càng đúng hơn hôm nay.
Thứ nhất, tự do tôn giáo chân thật cho Giáo Hội tương đối hóa và làm suy yếu sự toàn trị tuyệt đối của ĐCSVN, không những trên Giáo Hội, [4] mà còn trên các tổ chức tôn giáo khác và trên các thành phần khác của nhân dân, họ chấn chắn sẽ được tự do tôn giáo của Giáo Hội khuyến khích đòi hỏi và tranh đấu cho tự do tôn giáo của chính họ cũng như cho các nhân quyền căn bản khác.

[4] Nếu không biết rằng ĐCSVN một mực duy trì một thứ quyền toàn trị tuyệt đối, người ta thấy không thể hiểu được tại sao Đảng lại phản đối cách hung hăng và bẩn thỉu việc Đức Giáo Hoàng phong thánh 117 vị thnáh tử đạo VN năm 1988. 

 

Thứ hai, cho phép Giáo Hội hưởng một sự tự do tôn giáo chân thật có thể có nguy cơ khiến cho con cái Giáo Hội có khả năng lên tiếng công khai mà bảo vệ nhân quyền và nhân phẩm của người dân Việt Nam và lên án mọi hình thức bất công xã hội mà nguyên nhân chính yếu về mặt chính trị và xã hội của chúng rõ ràng là ĐCSVN. Bởi đó, Đảng đàn áp tự do tôn giáo của Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam để Đảng có thể ngăn ngừa xảy ra bất kỳ ích lợi nào mà tự do này có thể đem đến cho các nhân quyền căn bản khác của người dân Việt Nam hay có thể đóng góp vào việc dân chủ hóa đất nước.
Tuy nhiên, Đảng vẫn không hài lòng với việc chỉ loại đi bất kỳ tiềm năng nào đối kháng lại sự toàn trị của mình mà có thể ngoi đậy từ việc thi hành tự do này. Đảng muốn thêm điều gì khác, điều gì đó có hiệu năng đối với sự cai trị của Đảng. Chính thật ra, ĐCSVN đàn áp tự do tôn giáo” của Giáo Hội bằng cách nào mà Đảng đồng thời có thể biến Giáo Hội thành ra một dụng cụ hay phương tiện nào đó phục vụ cho sự độc tài toàn trị của mình. Nói cách cụ thể hơn, Đảng cố gắng hết sức để có được sự phục tùng và cộng tác từ những thành phần thuộc hàng giáo phẩm của Giáo Hội. Đảng muốn tất cả hoạt động của Giáo Hội bằng những cách khác nhau phải hướng đến việc hữu dụng cho Đảng, giúp Đảng tiếp tục nắm quyền.
Nói tắt một lời, khi đàn áp tự do tôn giáo của Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam, ĐCSVN không có mục đích nào khác hơn là tước đoạt sự đọc lập tự trị của Giáo Hỏi, chủ yếu là có được sự phục tùng và cộng tác của hàng giáo sĩ, và nhờ vậy mà biến Giáo Hội thành một phương tiện phục vụ quyền lực toàn tri của Đảng. Chính Mai Chí Thọ, bộ trưởng bộ Nội Vụ của Đảng trước đây, đã ám chỉ đến mục đích này với lời đe đoạ sau trong một buổi họp vào ngày 23 tháng Sáu năm 1990 với giới Công Giáo Sài Gòn (Giám mục Nguyễn Minh Nhật, Chủ tịch của Hội đồng Giám mục vào lúc đó, cũng có mặt tại buổi họp). Thọ nói: “”Nếu các vị không đi với chúng tôi, thì có nghĩa là các vị không thể đoàn kết với chúng tôi, mà cũng có nghĩa vị chống chúng tôi, không thể có nghĩa nào khác (sic) ! ” [5]

[5] Toàn bộ bài nói chuyện của Thọ được Công Giáo và Dân Tộc đăng trong các số ra ngày 5 và ngày 12 tháng Tám năm 1990. Công Giáo và Dân Tộc là tờ tuần báo của ủy han Đoàn kết Công Giáo Yêu nước. Tôi sẽ nói thêm về ủy ban này sau.
 

 

II- Những chiến lược mà ĐCSVN dùng để đàn áp tự do tôn giáo của Giáo Hội với mục đích là tước đoạt sự độc lập và tự trị của Giáo Hội, chủ yếu là có được sự phục tùng và cộng tác của hàng giáo sĩ, và nhờ vậy mà giản lược Giáo Hội thành một phương tiện phục vụ sự toàn trị của Đảng.

Để đạt được mục đích nói trên, bên cạnh sự đàn áp kiểu Stalin, ĐCSVN cần phải bày ra và sử dụng những chiến lược đàn áp khác. Những chiến lược này có thể công khai hay bí mật, bạo lực về mặt thể lý hay lừa đảo về mặt tâm lý, phù hợp hay không phù hợp với chính luật pháp mà chính Đảng làm ra. Chúng có thể được chia ra thành ba loại sau.

A.- Chiến lược thứ nhất

ĐCSVN cố gắng làm cho hàng giáo sĩ Công Giáo ở VN phục tùng sự thống trị của họ bằng những hạn chế và cấm đoán ít nhiều chính thức của đảng đối với những hoạt động thông thường của Giáo Hội như bổ nhiệm giám mục và giám quản giáo phận, phong chức linh mục, bổ nhiệm và thuyên chuyển linh mục, hội họp của các giám mục và linh mục. chiêu mộ chủng sinh, v.v . . .
Những hạn chế này đã từng được mô tả nhiều rồi. Tuy nhiên theo chỗ tôi biết những bản tường trình và những chứng từ ngoại quốc về việc Đảng đàn áp tự do tôn giáo của Giáo Hội đã thiếu sót không giải thích bản tính chiến lược của việc Dùng sử dụng những hạn chế này. Có nghĩa là, Đảng không áp dụng những hạn chế này một cách đồng đều không thiên vị nhưng một cách phân biệt hay chọn lọc nhằm những mục tiêu sau:

(1) Để loại trừ khỏi những vị trí lãnh đạo, khỏi những tác vụ tôn giáo, hay thậm chí khỏi hàng giáo sĩ bất kỳ người nào có khuynh hướng đối lập lại sự đàn áp của ĐCSVN để bảo vệ sự độc lập và tự trị của Giáo Hội trong các hoạt động tôn giáo của mình. [6]

[6] Từ đây trở đi, những người Công Giáo mà có thái độ này đối với ĐCSVN sẽ được đề cập đến như là những người Công Giáo thuộc nhóm thứ nhất. 

 

Trong số nhiều giáo sĩ nổi tiếng của nhóm thứ nhất này có cố Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền của Huế, Linh mục Chân Tín, dòng Chúa Cứu Thế, ở Sài Gòn, Linh mục Nguyễn Văn Lý cùng thuộc Huế, và Giám mục Huỳnh Văn Nghi của Phan Thiết. Những thái độ và hành động của ba vị giáo sĩ nói trước từng quá nổi tiếng đến nổi tôi không cần đề cập đến ở đây. Thay vào đó, cần có đôi điều nói đến trường hợp của Đức cha Nghi. Khi được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám quản Tông tòa của Sài Gòn vào ngày 10 tháng Tám năm 1993, Đức cha Nghi đã cố giới hạn quyền hành của Linh mục Huỳnh Công Minh, Tổng Đại diện, người mà Đảng ủng hộ mạnh mẽ. [7]

[7] Tôi sẽ nói nhiều đến linh mục này sau. 

 

Vì nỗ lực trên đây của Đức cha, ĐCSVN đã không thừa nhận việc bổ nhiệm và ngăn cản ngài thi hành tác vụ này cho đến khi Tòa Thánh bổ nhiệm Tổng Giám mục hiện hành Phạm Minh Mẫn vào năm 1998.
Một số giáo sĩ khác trong nhóm thứ nhất này mà cá nhân tôi từng biết đến là một vị linh mục chánh xứ ở một giáo phận nọ [8] và Linh mục Phan Văn Lợi.

[8] Vì lý do an toàn của ngài tránh trường hợp Đảng gây rắc rối cho ngài, tôi xin phép không nói rõ những chi tiết về tên tuổi và nơi chốn. 

 

Vị linh mục chánh xứ vừa nói đã nhiều lần làm cho ĐCSVN bực tức vì những bình luận khôn ngoan của ngài mà nhờ đó ngài đã có thể vừa phê bình Đảng về việc Đảng đàn áp tự do tôn giáo của Giáo Hội và cùng lúc vừa bài bác được những lời buộc tội khả dĩ của Đảng chống lại ngài. Hậu quả là, năm 1989 khi vị linh mục kể trên được Giám mục sở tại bổ nhiệm làm Tổng Đại diện của giáo phận, thì Đảng đã ngăn cản ngài thi hành chức năng này bằng cách từ chối cho phép ngài đổi về tòa giám mục. Đảng cũng cố gắng tạo một thứ áp lực về mặt tâm lý ở trên ngài bằng cách đổ lỗi rằng chính vì ngài có thái độ “xấu” đối với Đảng, mà Đảng giữ lại một số đại chủng sinh trong giáo xứ của ngài không cho chịu chức linh mục. Ngay cả nhiều năm sau, khi vị linh mục này rời bỏ giáo phận vào khoảng năm 1993 mà nhập một giáo phận khác, Đảng vẫn chưa bỏ qua “những tội” của ngài.
Đảng không cho phép vị giám mục của giáo phận mới bổ nhiệm ngài về ngay cả một giáo xứ nhỏ bé . Khi một giáo sĩ ở trong sổ “đen” rồi, thì ĐCSVN sẽ thù ghét người đó tới chết, trừ khi người đó thực sự chuộc “lỗi lầm” bằng cái mà Đảng có thể chấp nhận.
Về Cha Lợi thì ngài bị cấm không cho thi hành tác vụ linh mục, không những vì ngài được Tầm Nguyễn Văn Thuận [9] truyền chức linh mục cách bí mật vào ngày 21 tháng 5 năm 1981, mà còn vì ngài đã điều khiển một vở kịch tựa đề” là
“Dâng con cho Mẹ” tại giáo xứ chính tòa Phủ Cam vào ngày 21 tháng 9 năm 1981. Vở kịch phê bình việc ĐCSVN cấm cản một nhóm tín hữu Công Giáo hành hương đến Đền thánh Đức Mẹ La Vang.

[9] Tổng Giám mục Thuận, người lúc đó đang bị quản thúc tại gia ở Giang Xá, Sơn Tây, bây giờ là Hồng y (đã qua đời) và là Chủ tịch của Hội đồng Giáo Hoàng về Công lý và Hòa bình.
 

 

Vì hai “tội này mà Đảng đã giam cầm ngài trong trại cải tạo 7 năm, từ năm 1981 đến 1988. Đặc biệt, từ cuối năm 2000 đến nay Cha Lợi là một người lên tiếng công khai mạnh mẽ và trung thành ủng hộ cuộc tranh đấu cho tự do tôn giáo của Cha Lý . Cũng vì thế mà cha đang bị công an giám sát 24 giờ trên 24 giờ không cho ra khỏi nhà, cho dù không có bất kỳ bán án hình thức nào.
(2)- đe dọa và cảnh cáo trước những người nào mà ĐCSVN vẫn chưa có thể xác định được thái độ đối với Đảng [10] rằng họ nên tỏ ra ngoan ngoãn và phục tùng đối với Đảng nếu muốn ở trong tình trạng “tốt”. (Cũng dễ thấy là nhóm thứ hai này là nhóm đông nhất trong ba nhóm).

[10] Từ đây về sau, những người Công Giáo như thế sẽ được phân loại như là nhóm thứ hai. 

 

Sự kiện sau đây chỉ là một trong muôn vàn ví dụ cho sự đe dọa và cảnh cáo như thế. Khi Đại chủng viện Huế được Đảng cho phép mở cửa lại vào năm 1994, những ứng sinh ở Đà Năng được triệu hồi đến Sở Công an nhiều lần. Công an của Đảng nói thẳng thừng với một số ứng sinh, “Các anh phải biết rằng đất nước của các anh là Việt Nam, không phải là Vatican; vậy các anh phải biết ai là người các anh phái trung thành” . Còn đối với các ứng sinh khác thì họ sỉ nhục chính xác tín Công Giáo về bản chất thánh thiêng và nhưng không của ơn gọi linh mục khi ngạo mạn tuyên bố: “Không phải là Chúa mà là chính chúng tôi chọncác anh vào chủng viện và làm cho các anh thành linh mục ” (sic).
(3) – Để nâng đỡ và thưởng công với ít hạn chế hơn hay ngay cả không có hạn chế nào những người Công Giáo tỏ ra lụy phục đứng trước việc ĐCSVN đàn áp sự độc lập và tự trị của Giáo Hội hay ít nữa chứng tỏ không cả ước muốn đối lập lại sự đàn áp này. [11]

[11] Từ đây về sau, những người Công Giáo này sẽ được phân loại như /à nhóm thứ ba. 

 

Hệ quả là, Đảng đùng những linh mục và giám mục thuộc nhóm thứ ba này như /à những “trung gian” được ưa chuộng, mà sự giúp đỡ của họ Đảng mong muốn Giáo Hội phải tìm kiếm, nếu Giáo Hội muốn xin Đảng nới lỏng một vài hạn chế cụ thể.
Vai trò trung gian này ĐCSVN đã thường chính thức ban cho các linh mục thuộc nhóm thứ ba khi mà họ gia nhập ủy ban Đoàn kết Công Giáo Yêu Nước. [12]
Ủy ban này là một bộ phận của Mặt trận Tổ Quốc việt Nam và trong bản chất là một tổ chức do ĐCSVN điều khiển.

[12] Từ đây về sau, UBĐKCGYN. 

 

Một trong những bổn phận của nó đối với Đảng là hoạt động như một thứ phát ngôn viên bán chính thức của Đảng đối với giới Công Giáo ở Việt Nam bằng cách xuất bản tờ tuần báo gọi là Công Giáo và Dân Tộc. [13] .

[13] Trả lời cho một câu hỏi “Đức cha nghĩ sao về ủy ban Đoàn kết Công Giáo Yêu nước? (Que pensez-vous du Comité d’union des catholiques patriotes)” của báo Eglises d’ Asie trong cuộc phỏng vấn vào ngày 12 tháng Mười Hai năm 1990, Giám mục Nguyễn Minh Nhật của Giáo phận Xuân Lộc nói: “Ủy ban giữ tờ báo Công Giáo độc nhất tại miền Nam Việt Nam: tờ “Công Giáo và Dân Tộc”. Nhưng cả ủy ban lẫn tờ báo nên được coi như là những cơ quan của nhà nước thì hơn. Những bài viết của tờ báo luôn luôn bênh vực chính sách của chính phủ và rất thường phê bình đối với Giáo Hội. Chúng không cho (người đọc) một ý tưởng đúng đắn về Giáo Hội tại Việt Nam ( Le Comité détient l”unique jouma/ catholique du Sud Viet-nam: “Le Catholicisme ẹt la Nation” Cependent, l’un com me l”autre doivent être considérés plutôt comme des organes de l’état. Les articles du joumal sont toujours en faveur de la politique gouvernementale et très souvent critiques vis-à-vis de l’ Église. Ils ne donnent pas nhe idée juste de l’Église du Viet-nam )” 

 

Cố Tổng Giám mục Sài Gòn, Đức cha Nguyễn Văn Bình, phải thừa nhận rằng: “Chúng tôi dựa vào UBĐKCGYN để giải quyết một số vấn đề. Chẳng hạn, nếu tôi muốn triệu tập tín hữu mà xin phép Nhà nước, Nhà nước sẽ không cho. Nhưng nếu tôi nhân danh UBĐKCGYN để triệu tập tín hữu thì Nhà nước sẽ cho phép dễ dàng” . [14]

[14] Trả lời phỏng vấn của báo Il Regno Attualità ngày 15 tháng Tư năm 1990. 

 

Cũng đáng lưu ý rằng, như nhiều bằng chứng cho thấy, ĐCSVN cố làm cho nhiều giáo sĩ Công Giáo tham gia vào UBĐKCGYN và vào một vài tổ chức chính trị khác như Quốc Hội và Hội đồng Nhân dân ở các cấp khác nhau, để mà dụ dỗ họ không vâng phục Giáo Hội, để dùng nhiều thứ hội họp và công việc chính trị mà ngăn cản họ khỏi chu toàn bổn phận linh mục của mình đối với Đức Kitô và Giáo Hội, [15]

[15 ] “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dễ chủ nọ” (Matthêô 6, 24). 

 

và cuối cùng để dễ dàng gài bẫy họ vào những sai phạm luân lý để Đảng nấm được khuyết điểm mà khai thác, [16] là điều sẽ bảo đảm được sự phục tùng và cộng tác trung thành của họ.

[16] Xem chiến lược thứ hai. 

 

– Cũng để can thiệp sao cho những giáo sĩ Công Giáo thuộc nhóm thứ ba có thể đạt được những vị trí quan trọng trong hàng lãnh đạo Giáo Hội. Lúc đó qua họ, ĐCSVN có thể bí mật xâm nhập vào chính cơ cấu của Giáo Hội và phát triển ở trong đó những nhân tố năng động phục vụ cho mục đích của Đảng cách phập pháp.
Trường hợp khét tiếng nhất có lẽ là Linh mục Huỳnh Công Minh , một thành viên rất tích cực của UBĐKCGYN. Được bầu làm đại biểu Quốc hội, Linh mục Minh đã tuyên bố trong bài phát biểu tại một phiên họp của Quốc hội vào năm 1976 rằng “con người mới, xã hội mới mà mọi người đều mơ ước mà mọi người tin vào Chúa Kitô Giê su mãi mơ ước, con người mới đó, xã hội mới đó” không thể có được, không bao giờ có được, nếu không có Đảng Lao Động Việt Nam, [17]

[17] Tên của ĐCSVN vào lúc đó.  

đội tiền phong của giai cấp công nhân, lãnh đạo và tổ chức (sic). [18] Linh mục Minh cũng đã từng là tổng biên tập của tờ Công Giáo và Dân Tộc, một tờ báo của Đảng như đã chỉ ra ở trên.

[18] Bản tin ngày 7 tháng Bảy năm 1976 của Thông Tân Xã Việt Nam, tức cơ quan thông tin của Đảng, đã đăng lời phát biểu này.
 

 

Cái bảnchất nguy hiểm của mối quan hệ của ông với Đảng được đánh giá thích đáng hơn từ khi nó bị tiết lộ trong một lá thư riêng mà Linh mục Vương Đình Bích, chủ tịch của UBĐKCGYN thành phố HCM vào lúc đó, viết cho một số cơ quan của Đảng vào ngày 25 tháng Mười Hai năm 1997 để giải thích cho những cơ quan này việc xung đột mang tính chia rẽ giữa các thành viên của UBĐKCGYN về một số vấn đề tài chính. [19]

[19] Lá thư viết: “Tôi, (LM. Bích) đã thành khẩn nói với hai anh Từ (Lm. Phan Khắc Từ) và Cần (Lm. Trương Bá Cần), là vấn đề thật của Tổ chức chúng ta, không phải là Nhóm nghiên cứu, mà là Nhóm 4 anh em chủng tôi, Minh ( (Lm. Huỳnh Công Minh)-Cần-Từ-Bích đã được lãnh đạo 

 

Với biết bao phẩm chất “tốt” và thành tựu theo tiêu chuẩn của Đảng, ĐCSVN rõ ràng đã xem Linh mục Minh như là ứng viên tốt nhất của chức vụ Tổng Giám mục Sài Gòn. Nhưng sau khi chắc chắn thấy rằng linh mục này rõ ràng là một nhân vật thất sủng (persona non grata) trong mắt Toà Thánh cho bất kỳ vì trí giám mục nào. Đảng bảo vệ quyền hành của ông bằng cách khác. Đảng dứt khoát đòi hỏi sau phải được thoả mãn như là một trong những điều kiện để Đảng chấp nhận bất cử ứng viên nào khác hơn là Linh mục Minh cho chức vụ Tổng. Giám mục Sài Gòn. Đó là bất kỳ tân Tổng Giám mục nào cũng không được loại ông ra khỏi vị trí tổng đại điện hay cắt giảm quyền hành của ông, quyền hành mà ông hưởng dưới thời cố Tổng Giám mục Bình. Điều đó muốn nói là trong thực tế quyền hành của Linh mục Minh nhiều hơn xa quyền hành của một vị tổng đại diện bình thường theo Giáo luật Hơn nên, dưới thời Tổng Giám mục Bình, Đảng đã can thiệp bằng cách khác nhau để Linh mục Minh và những người Công Giáo khác thuộc nhóm thứ ba có thể thống trị Ban Cố vấn của Tổng Giáo phận Sài Gòn. “Ban này, ngoài hai Đức cha, gồm sáu ủy viên, mà bốn ủy viên là những người chóp bu của UBĐKCGYN (Nguyễn Huy Lịch (linh mục), Phan Khắc Từ (linh mục), Huỳnh Công Minh (linh mục), Nguyễn Đình Đầu (giáo dân). Còn lại là Cha Mai Xuân Hậu và Chân Tín [20]

[20] Thư Linh mục Chân tín gửi Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình ngày 17 tháng Mười năm . 

 

Một trường hợp khác ít được biết đến hơn nhưng không kém nghiêm trọng đó là Linh mục Nguyễn Bình Tĩnh của Đà Nẵng (nay là Giám mục), người đã ủng hộ những hoạt động và chính sách của ĐCSVN công khai và hăng say đến nỗi gây “scandal” cho nhiều người Công giáo trong giáo phận. Ví dụ, trong những bài giảng phụng vụ, ông trích dẫn các văn kiện của Đảng như một thứ hướng dẫn luân lý cho tín hữu Công Giáo. [21]

[21] Khi còn là một chú giúp lễ ở giáo xử Thanh Đức, Đà Nẵng, vào những năm 80, chính tôi đã chứng kiến một trường hợp như vậy vào một dịp cử hành Tam Nhật Thánh mà Linh mục Tĩnh chủ sự vì cha chánh xứ của tôi tạm thời mất tiếng sau một cuộc giải pháp ở cổ. 

 

Nhiều người Công Giáo ở Đà Nẵng cũng đã tường thuật rằng vào.một ngày Chúa Nhật năm 1991, Linh mục Tĩnh đã cho phép một viên chức của Đảng nói chuyện ở trong nhà thờ giáo xứ An Hải của ông mà kêu gọi giáo dân tham gia chương trình công trái của Đảng. Và như thể điều này chưa đủ, vào tháng Ba năm 1993, lại cũng trong một thánh lễ Chúa Nhật, Linh mục Tĩnh đích thân phân phát cho giáo dân những tập giấy của Đảng quảng bá ngừa thai nhân tạo và phá thai (lưu ý rằng Đảng không những cho phép mà còn khuyến khích phá thai không hạn chế). Có sẵn một linh mục tốt như thế, Đảng đòi hỏi rằng ông phải được đặt làm Giám Đốc Đại Chủng viện Huế như là một trong những điều kiện để chủng viện được mở cửa lại vào năm 1994. Không chỉ có vậy, Đảng còn thành công trong nỗ lực kiên trì và có tổ chức của mình để ép Giáo Hội vào góc tường khiến Giáo Hội khó có thể tránh bổ nhiệm Linh mục Tĩnh làm Giám mục phó có quyền kế vị của Đà Nẵng vào tháng Sáu năm 2000 (và bây giờ là Giám mục chính tòa). [22]

[22] Ngay từ những năm 95, 96, nhiều linh mục và giáo dân của Giáo phận Đà Nẵng đã biết đến một văn thư được Công an Đà Nẵng gửi đến cho Linh mục Tĩnh, trong đó họ đã thẳng thừng gọi ông là “Giám mục”. Một sự kiện khác cũng đáng biết. Trong giáo phận có một vài linh mục ít nhiều xứng đáng là những ứng viên giám mục nhưng các vị đã bị bổ nhiệm dạy trong ban giáo sư của Đại Chủng viện Huế vì chủng viện thật sự cần sự giúp đỡ của các ngài. Đảng đòi hỏi rằng vì những linh mục này bây giờ sống và dạy tại chủng viện như là thành viên của ban giáo sư, các ngài phải huỷ bỏ thường trú của mình ở Đà Nẵng mà đăng ký thường trú ở Huế. Hệ quả là, các ngài mất thường trú ở Đà Nẵng. Đòi hỏi này hóa ra là một bước trong âm mưu được Đảng chuẩn bị từ lâu âm mưu này sau đó đã sử dụng tình trạng thường trú ở nơi khác như là một lý do hợp pháp để từ chối việc đề cử những linh mục đang nói vào chức vụ Giám mục Đà Nẵng và nhờ vậy mà để dành cơ hội cho một mình Linh mục Tĩnh. Thật vậy, nếu cùng một logic ở trên mà đã được áp dụng, thì Đảng đáng lẽ phải đòi hỏi việc hủy bỏ thường trú của Linh mục Tĩnh ở Đà Nẵng còn nhiều hơn là Đảng đã làm vậy đối với những linh mục vừa nói trên, bởi vì ông là Giám đốc Đại Chủng viện Huế. Nhưng trái lại, Đẳng đã không làm vậy, mà lại một mực đòi rằng ông phải duy trì thường trú ở Đà Nẵng. Cuối cùng, một nguồn riêng cho biết rằng dầu Giám mục cũ, Đức cha Nguyễn Quang Sách, sức khoẻ rất yếu kém và hết sức cần người thay thế hay tối thiểu là một vị phó có quyền kế vị, nhưng ngài vẫn không muốn Linh mục Tĩnh vào vị Giám Mục cũng như đã không đề cử ông, có lẽ vì ngài sợ những nguy hại lớn lao cho Giáo Hội trong tương lai. 

 

Từ lúc đó, đúng y như Đảng sắp đặt và dự định sẽ xảy ra, nhờ vào quyền hành giám mục, sự phục tùng và cộng tác của ông đối với Đảng càng có nhiều hiệu quả hơn. Hai câu chuyện sau đây có thể xem như là những ví dụ. Vào cuối năm ngoái, khi Đảng từ chối bồi thường cho giáo xứ Thanh Đức về khoảng 2, 000 mét vuông mà Đảng lấy từ đất của giáo xứ để mở rộng đường, thì cha chánh xứ, Linh mục Đặng Đình Canh, và hầu hết các thành viên của giáo xứ đồng lòng quyết định dùng luật pháp mà tranh đấu đòi bồi thường. Giám mục T nữ đến thăm giáo xứ để điều tra sự việc Sau khi tận tai nghe quyết định của giáo xứ, lúc ra về, ông nói riêng với Cha Canh: “Tôi không muốn (giáo xứ) làm ồn ào chuyện này”. Hiểu được vị giám mục muốn nói gì, vị linh mục chọn lựa vâng theo và khuyên các thành viên của giáo xứ bỏ đi quyết định vốn có của họ, và để cho Đảng lấy đất không tốn một xu. Gần đây hơn, trong một cuộc phỏng vấn của báo Công Giáo và Dân Tộc vào tháng Năm năm nay, Giám mục Tĩnh đã công khai bảo vệ việc giáo sĩ Công Giáo tham gia vào các tổ chức chính tả của Đảng, cụ thể là việc Linh mục Nguyễn Tấn Khóa, một trong những linh mục của ông, được giới thiệu ra ứng cử vào Quốc hội. ông nói: “Giáo Hội khuyến cáo các linh mục không nên tham gia vào các đảng phái chính trị và làm chính quyền vì sợ bị chi phối mục vụ và mất đoàn kết. Tuy nhiên mỗi nước có những thể chế chính trị riêng. Trong bối cảnh việt Nam chúng ta, công quyền ít có sự hiện diện của Giáo Hội, nên tôi thấy các linh mục tham gia vào Quốc hội là chuyện bình thường và cần thiết vì Quốc hội là tập hợp của khối đại đoàn kết gồm đại diện nhiều thành phần khác nhau. Do đó, ở giáo phận tôi, nếu linh mục nào được nhân dân tín nhiệm bầu làm đại biểu Quốc hội, tôi thấy không có trở ngại nào (sic)”. [23]

[23] Xem toàn bộ bài phỏng vấn trong số ra từ ngày 24 đến ngày 30 tháng Năm năm 2002 của Công Giáo và Dân Tộc: trang 14 và trang 40.
 

 

(còn tiếp)

1 bình luận

Filed under GIÁO HỘI CG VN

Bút ký tôi Phải sống của LM Nguyễn H Lễ

https://www.google.com/url?sa=t&source=web&cd=1&ved=2ahUKEwiJ7ZCr4p3pAhWENX0KHc8xBRUQFjAAegQIARAB&url=https%3A%2F%2Fanhbasam.files.wordpress.com%2F2016%2F03%2Ftoi-phai-song.pdf&usg=AOvVaw31hbffa6UuJ_1UNzh8MP6r

Bình luận về bài viết này

Filed under Uncategorized

DCCT CÓ CÒN SỨ VỤ VÌ NGƯỜI NGHÈO?

minhmau
kính cáo cùng quý vị ngày hôm qua, đọc thông cáo của cha Giuse Đinh Hữu Thoại , trên FB của DCCT. nhưng là bản đã bị kiểm duyệt và đục bỏ . hôm nay tôi xin đăng lại nguyên văn bản thông báo của Cha Thoại , bổ túc thêm phần bị cắt xén ( được đánh dấu xanh )
ý Chúa nhiều khi bị người ta lợi dụng. chỉ những ai chỉ trí yêu thương, can đảm bước theo chân Chúa. dấn thân vì công bằng xã hội , sẵn sàng lên tiếng vì sự thật, lúc thuận tiện cũng như không thuận tiện, như Chúa từng lên tiếng và sinh hoa kết trái.
nhìn hoa trái sinh ra từ Dcct những năm trước, có thể nhận biết ý Chúa.
nhưng ý Chúa thường bị tội lỗi loại trừ, không phải Chúa thua cuộc. mà chính chúng ta lơ là trong cuộc chiến với ma quỷ
trong hành trình khổ giá, quỷ luôn bám theo Chúa . nó đầy Chúa ngả xuống và rồi Chúa đứng dậy
như thế “ngã xuống” ý của quỷ. “đứng dậy” mới là ý Chúa
Juda bán Chúa là ý của quỷ, để cho con người tự do, Chúa sống lại , mang ơn cứu độ cho trần gian là ý Chúa
những người trong nhà dòng ngăn cản, từ bỏ sứ vụ vi người cùng khổ bị áp bức bất công. là hình ảnh các môn đệ từ bỏ Chúa khi người bị hành hình. là ý định của ma quỷ gieo vào lòng họ sự sợ hãi, lòng hoài nghi. nhưng các ông đã kiêm nhường, xám hối và bước ra khỏi ngôi mộ tội lỗi của các ông cùng với Chúa toàn thắng . quyết tâm bước theo Người và đã làm thay đổi bộ mặt thế giới .
xin các anh chị em thiện chí cùng lên tiếng và cầu nguyện cho nhà dòng CCT trung thành với hiến pháp, sứ vụ luôn đứng về phía người nghèo bị áp bức . trước mắt là trung thành bảo vệ những thành viên truyền thông công tác với nhà dòng từ trước đến nay
tiếp theo là gì có phải phòng Công lý và Hoà bình không được phép tồn tại, cũng như Thánh lễ cầu cho CL & HB mỗi tháng còn tiếp tục?
vấn đề tất cả mọi người quan tâm Là DCCT có còn thực sự thi hành sứ vụ đứng bên cạnh những người nghèo bị áp bức, bất công , bỏ rơi. lên tiếng thay cho họ vì sự thật và công bằng nữa không? ai, thế lực nào ngăn chặn cả nhà dòng đến với TPB là những người bần cùng nhất trong xã hội VN và bị bỏ rơi gần nửa thế kỷ. ĐTC Francis đã mời gọi và làm gương. thế lực nào cản trở nhà dòng bước ra khỏi nhà mồ theo chân Chúa Yêsu phục sinh, là câu hỏi công luận đặt ra cho cha tân GT DCCT Giuse Nguyễn ngọc Bích

Thư xin lỗi quý Thương phế binh VNCH
ĐĂNG NGÀY: 15.04.2015 , MỤC: – TIN NỔI BẬT, DÒNG CHÚA CỨU THẾ
VRNs (15.04.2015) – Sài Gòn – Kính thưa quý TPB VNCH đang sống tại các tỉnh/thành phố Sài Gòn, Đăk Lăk, Lâm Đồng, Bình Dương, Bến Tre, An Giang, Kiên Giang, Vĩnh Long, Tiền Giang, Long An, Đồng Tháp, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Cà Mau, Bình Thuận, Đà Nẵng, Quảng Ngãi và Tây Ninh.
Trước hết, Ban tổ chức chúng tôi thành thật xin lỗi quý anh em đã được gọi về DCCT Sài Gòn ngày 17.04.2015 sắp tới để được kiểm tra sức khoẻ đợt 7 vì chương trình này đã bị huỷ.
Kế đến chúng tôi xin gửi lời xin lỗi sâu xa đến quý y, bác sĩ thiện nguyện, quý vị hảo tâm xa gần, quý anh chị em tình nguyện viên, tổ phục vụ cơm trưa, 4 Phòng khám Đa khoa mà chúng tôi đã làm hợp đồng xét nghiệm cận lâm sàng.
Nguyên nhân sự việc là, ngày 02/04/2015 chúng tôi đã làm hợp đồng , mượn các phòng lầu 2 , Giê ra đô,và Anphong, nhà mục vụ DCCT làm khu vực , họp mặt và khám bệnh cho 152 anh em TPB VNCH đợt 7. chúng tôi đã gọi điện thoại cho 152 anh em vừa nói , thuộc các tỉnh nêu trên , để hẹn ngày kiểm tra sức khỏe . chúng tôi cũng đã hợp đồng với 4 phòng khám đa khoa và xin các y bác si thiện nguyện xắp xếp công việc đến khám bệnh cho anh em , đồng thời mời các tình nguyện viên có mặt để phụ giúp cong việc khám bệnh .
Tuy nhiên ngày 13/04/2015 vừa qua cha Vũ Trọng Phiệt ( Hoàng Phúc) tân giám đốc nhà sách Đức Mẹ và nhà mục vụ DCCT. Thông báo cho chúng tôi rằng , cha giám tỉnh Giuse Nguyễn Ngọc Bích quyết định từ nay không cho phép khám chữa bệnh cho TPB , với danh nghĩa DCCT nữa . Đồng nghĩa với cũng không được xử dụng các cơ sở của nhà dòng , để thực hiện các hoạt động tri ân TPB VNCH . Chiều ngày 14/ 04/2015 cha giám tỉnh đã xác nhận sự việc này.
Quyết định được thông báo quá gần ngày tổ chức. Chúng tôi biết việc huỷ bỏ ngày kiểm tra sức khoẻ này gây ra cho anh em nhiều hụt hẫng và bất tiện vì anh em đã chuẩn bị mọi sự để lên đường. Chúng tôi biết rằng quý y, bác sĩ và các tình nguyện viên cũng rất buồn lòng. Chúng tôi sẽ cố gắng thông tin đến từng người.
Ban tổ chức chúng tôi thành thật xin lỗi tất cả quý vị về sự việc đáng tiếc này.
Trong tương lai, với tư cách cá nhân Tu sĩ, Linh mục DCCT, chúng tôi sẽ tìm cách để quý anh em TPB VNCH được phục vụ tiếp tục, vì lương tâm chúng tôi xác tín rằng quý anh em chính là những người bơ vơ tất bạt, những người bị bỏ rơi hơn cả, là đối tượng của Tu sĩ DCCT chúng tôi.
TM. nhóm phục vụ TPB VNCH
Lm. Giuse Đinh Hữu Thoại
Vinh Sơn Lý Thanh Liêm Cypress, TX

Bình luận về bài viết này

Filed under Uncategorized

THƯ KHÔNG NIÊM kính gửi: LM Giuse Nguyễn Ngọc Bích, tân Giám Tỉnh DCCT tại VN

GT
đầu tiên xin hỏi thăm sức khỏe cha, chắc cha không còn nhớ con, cũng lâu lắm rồi không liên lạc, cũng khoảng 15 năm hơn rồi, nhưng con thì vẫn thường xuyên liên lạc với nhà dòng ,vẫn nhớ đến và cầu nguyện cho cha. vậy nhắc lại một chút , con là Liêm nhà ở đường Lê Văn Sĩ( Trương minh Ký cũ) nè cha.
Hồi đó khoảng trước sau năm 2000 . Cha con thường gặp nhau, được cha dạy bảo giáo lý, con còn nhớ mãi. lúc thì cha ghé nhà con , lúc Cha bận , con ghé nhà dòng, để chuyển những món tiền còm cõi .của những người nghèo ở Arizona gom góp, gửi gúp nhà dòng lúc khó khăn , hoặc giúp người nghèo ( không phải ở Mỹ ai cũng giàu đâu nhé). để con nhắc chuyện này có lẽ cha nhớ , có một cô gái ở Phoenix, AZ rất nghèo , bị bịnh không đi làm hãng xưởng gì được, nhưng thường xuyên gửi tiền (dù không nhiều nhõi gì) để cha giúp các thầy chủng sinh nghèo, không biết cha có biết không, tiện đây kể sơ sơ về cô ấy một chút,( xin không nêu tên , nhưng chắc cha nhớ lại ngay ấy mà) để có tiền gửi về cô ta đi lượm lon, nhất là những khi đi ăn tiệc, party với người nhà ( ở đó thì có nhiều lon để lượm ) cô ta bỏ cả ăn, chui xuống gầm bàn , lục thùng rác để gom góp. thấy nhiều khi cũng mủi lòng .
xin lỗi cha con dài dòng như vậy để nhắc cha nhớ lại , những kỷ niệm , cũng để cha hiểu rằng con luôn thương mến nhà dòng , các LM , Tu sĩ , cũng như người nghèo khắp nơi tin yêu DCCT như thế nào , khi viết thư này, cho cha cũng như vậy không hề có ác ý.
mấy ngày nay sau khi có “biến động ” ở nhà dòng , đối với Cha có thể là chuyện bình thường , nhưng với hàng triệu người Việt trong và ngoài nước và cả một số ít người ngoại quốc quan ngại đến những việc thay đổi bất thường này. con nói có ngoa không ?
Cha thấy đấy tin tức , bình luận , thắc mắc , giận hờn, oán trách đầy rẫy trên VOA, RFA, FB và nhiều trang mạng , cũng như báo điện, báo giấy . Đọc đến đây có lẽ cha mắng rằng, thằng này nhiều chuyện , sao không gửi thư riêng mà gửi thư không niêm .
Như nói ở trên , những thắc mắc , câu hỏi, con xin được trả lời, cũng là quan tâm của mọi người yêu mến Mẹ Maria HCG , Yêu mến nhà dòng . nên con mạn phép post lên báo điện tử , và cũng xin cha trả lời trên báo của DCCT để mọi người được yên tâm .
trước khi đi vào những thắc mắc , xin được nói thêm một chút . cũng có người nói rằng chuyện nội bộ nhà dòng , giáo dân, người ngoài không nên thắc mắc , theo thiển ý của con ( con không có ý định bàn cãi về giáo luật hay kinh thánh với cha vì chắc chắn con còn non kém lắm )
Thưa cha , không phải linh đạo của dòng là mang tin mừng,” ơn cứu độ chan chứa” đến cho muôn người sao? mà muôn dân, nhất là những người nghèo đói , bị bỏ rơi , bị áp bức , bất công là đối tượng của nhà dòng . Nhà dòng là cái phao cho mọi người nắm vào , giữa biển đời tăm tối , tà ác , những cơn sóng đỏ tội ác cứ phủ chụp, nhận chìm họ , tương lai con cháu họ xuống vực thẳm. nay thấy như có thể không có chỗ bám víu thì họ phải la lên , và có quyền kêu nài lòng thương xót Chúa chứ ! ai có quyền cấm cản. hơn nữa khi đi rao giảng Chúa Giê su còn quan tâm đến đối tượng tin mừng , khi hỏi các môn đệ rằng :” dân chúng nói gì ? nói thầy là ai?”. Chẳng lẽ nhà dòng , Cha GT không cần nghe dư luận sao?
người ta còn so bì , gánh vác người nghèo, cải tạo xã hội , binh vực kẻ thế cô , vực dậy những con người bị chà đạp không phải là trách nhiệm riêng , chỉ mình DCCT phải đảm nhận , mà của chung xã hội , các hội dòng , các Tôn giáo. DCCT không làm nữa, thì tổ chức khác gánh vác thay, như thế là không đúng với căn tính CG.
Không cần biết ai làm , ai không. nhưng Chúa dạy rằng :” hãy thương yêu nhau . như thầy yêu thương anh em” như thế làm sao mà yêu thương được , khi dừa qua , dừa lại được. Không có tôi , thì đã có người khác, không có dòng CCT thì đã có dòng Đa Minh .v.v
Nếu ngày xưa các Thánh Tông đồ không noi gương Chúa Kitô ” không tình yêu nào cao quý, hơn tình yêu hiến mạng sống cho bạn hữu ” ông Phêrô, dừa qua ông Giacobe , mình không hy sinh , thì đã có các tông đồ khác. Thì có lẽ không có giáo hội. các ông đã yêu thương , đi đến cùng . Không cần thắc mắc người khác có làm hay không ? đã theo gương thầy chí thánh đi trọn con đường thập giá. và nhờ ơn Người các tông đồ đã thay đổi cả thế giới.
Con còn nhớ Thánh Gioan Phaolô 2 có nói với thanh niên , trong một kỳ đại hội là:” if not you , who? if not now , when?” ( không phải là các bạn , thì là ai ? nếu không phải bây giờ, thi khi nào?) ý ngài nhắc nhở phục vụ tha nhân , yêu thương người nghèo là bổn phận của mọi người làm ngay và không dừa qua dừa lại . kiểu “cha chung không ai khóc, hay ai muốn khóc thì khóc”.
sau hai nhiệm kỳ của cha Vinh Sơn Phạm Trung Thành , hai lần công Nghị tỉnh dòng , xác định” đem tin mừng , cho người nghèo khó bị bỏ rơi , áp bức bên lề xã hội VN, cùng với họ đòi công lý và sự thật.” Cha cựu GT cùng với quý cha đến với người nghèo , bị áp bức bất công , đưa tay ra với tù nhân lương tâm, anh em TPB VNCH là những người cần được quan tâm giúp đỡ ngay , càng sớm càng tốt , không thể chần chờ vì họ bị chà đạp , hất hủi đã quá lâu rồi, 40 năm, hơn nửa đời người .
Bằng những việc thiết thực được khởi động từ năm trước đến nay đã được 6 đợt rồi , trổ sinh hoa trái , được mọi người nhiệt tâm ủng hộ tinh thần , vật chất không thiếu.( ngoại trừ nhà cầm quyền csVN , họ vẫn rắp tâm trù dập TPB VNCH, tuy vẫn kêu gào hòa hợp hòa giải) cũng là một cách đem tin mừng cứu độ cho họ một cách hữu hiệu nhất , ở đó họ cảm nhận được tình yêu của Chúa KiTô và Mẹ Maria HCG , như họ đã khóc trong vòng tay Cha Vinh Sơn , và bày tỏ niềm cảm xúc của họ. cũng như Cha đã trả lời phỏng vấn của PV Mặc Lâm của đài RFA , và anh JB Vinh đã khẳng định là “việc tốt nên làm” thế nhưng Cha đã đột ngột cắt đứt việc làm phúc đức của nhà dòng , không kể đến việc hụt hững của ban tổ chức , thất vọng và tổn thương đến các anh em TPB . với một chữ “chưa làm ” và khi được hỏi thì xoay quanh chữ ” đồng thuân ” không rõ ràng ,cũng không thuyết phục . vậy con xin được hỏi
1/như nói ở trên chưa làm bây giờ , thì bao giờ làm , nếu không có thời gian xác định có nghĩa là không làm nữa , có đúng không cha? Cha cũng biết rằng , không làm ở nhà dòng thì không làm ở đâu được . vì nhiều lần PGVNTN đã tổ chức ở Chùa Liên Trì , đã bị công an giả côn đồ đánh tơi tả , mới đây hội đồng liên tôn đinh tổ chức tri ân TPB ở Huế là họ dập tắt ngay. cha có thể cho biết khi nào khởi động lại chương trình trợ giúp TPB trong khuôn viên , dưới sự bảo trợ của nhà dòng ?
2/ cha cứ xoay quanh chữ ” không đồng thuận” vậy ai không đồng thuận , cá nhân, tổ chức nào . nếu trong nhà dòng không đồng thuận ? sao đã có 6 đợt diễn ra rồi . mọi sự tốt đẹp được cả thế giới hoan nghênh , quan trọng hơn là mọi người cảm nhận tình yêu của Chúa Cứu Thế hiện hữu nơi nhà dòng. Sao lại có thể là LM , Tu sĩ DCCT, lại không đồng thuận được . Có phải cha ám chỉ nhà nước cs không ” đồng thuận”? và cha chờ sự đồng thuận của nhà nước cs?
Có người nói thay đổi nhân sự , trong nhà dòng là bình thường , nhưng con thấy được sự bất thường, cho đến nay VRNs được thế giới , và người dân trong nước tin tưởng là tiếng nói trung thực của giáo hội , của nhưng người bị áp bức , chà đạp nhân quyền . của nhưng tù nhân lương tâm , bị oan sai là do các cha nhiệm kỳ trước dày công gầy dựng , hy sinh . mới hoạt động được đưa tin mừng đến mọi người , mọi nơi . như Cha Aton Thanh nói một ngày mà bị tấn công hàng trăm ngàn lần , trước năm 2012 là hầu như tê liệt , bị đánh sập thường xuyên.
3/ nhưng Cha đã sa thải( lay off) toàn bộ từ cha tới con , từ chủ tới tớ . Những anh chị em đã hi sinh , gạt bỏ khó khăn , bản thân bị xách nhiễu từ nhà cầm quyền cs , an nguy của gia đình , thời giờ sức khỏe cả việc làm , để cùng với quý cha đem tin mừng cho người nghèo khó, tháo gông cùm cho nô lệ , giải thoát tù nhân lương tâm , kẻ bị chế độ kết tội vô cớ , loan truyền hồng ân Thiên Chúa cho lương dân . ngay như cs tiếp thu đài phát thanh SG , cũng xử dụng lại nhân viên chế độ cũ một thời gian để học hỏi kinh nghiệm của họ. Thế nhưng tất cả các LM , Anh chị em VRNs cũ dạn dày kinh nghiệm , nhưng không còn ai dính dáng đến truyền thông của nhà dòng nữa . không phải là bất thường sao? không muốn loan truyền sự thật nữa sao?
4/ phòng công lý & Hòa bình có còn được hoạt động trong khuôn viên và dưới sự bão trợ của nhà dòng không ? nếu có thì có tiếp mọi người cần đến công lý, với sự giúp đỡ pháp lý của nhà dòng không ?
5/ thánh lễ công lý và hòa bình có được duy trì mỗi tháng như trước không ? nếu còn thì có giữ nôi dung như trước đây : nói lên những hành vi vi hiến , pháp luật của cs, bảo vệ những người bị chà đạp nhân quyền , kết tội trái pháp luật , vô cớ không ?
cám ơn Cha đã vui lòng đọc thơ của con , mong cha trả lời sớm, vì xã hội VN đang rên xiết từng ngày , con nhớ cầu nguyện cho cha bình an , khỏe mạnh nhất là đầy ơn Chúa Thánh Thần thêm can đảm , bước theo chân Chúa, dẫn dắt linh đạo của nhà dòng , như Cha cựu GT Vinh Sơn đã gặt được hoa trái, cho vườn nho của Chúa .
Vinh Sơn Lý Thanh Liêm
liemlyfr@gmail.com

1 bình luận

Filed under Uncategorized

BỐN MƯƠI NĂM THÂN PHẬN TPB VNC

30.04  một con số đeo đẳng dân tộc VN suốt 40 năm qua1975- 2015, dường như không phai nhạt trong tâm trí người dân.  chưa có một cuộc nội chiến, huynh đệ tương tàn nào trên thế giới, lại có một thời kỳ hậu chiến kéo dài như thế. 40 năm không xóa nhòa được trong lòng người dân, vì tội ác đảng cs vẫn kéo dài đến ngày hôm nay.

sau một cuộc nội chiến phe ” thắng cuộc” phải vì quốc gia dân tộc tiến hành hòa giải hòa hợp, để cùng toàn dân xây dựng lại đất nước không phân biệt, trả thù. nhưng với bản chất dã man, tay sai cs quốc tế Nga, Tàu cs VN gieo  rắc tội ác khắp mọi nẻo đường quê hương , với mọi thành phần dân tộc , tôn giáo  để thực hiện độc tài toàn trị trên toàn cõi VN. một trong những tội ác là trả thù thương phế binh( TPB) VNCH, ngày 01/05/75 bọn cs vào tổng y viện Cộng hòa(TYVCH) , là quân y viện lớn nhất nước. một thông báo lạnh lùng ác độc được đọc bằng loa :” tất cả thương bệnh binh ngụy phải rời bệnh viện vô điều kiện , trong vòng 1 ngày” thế là một quang cảnh hoảng loạn diễn ra : người còn đi được , gắng chút hơi tàn giúp chiến hữu què cụt , dắt díu nhau ra khỏi TYV. Thê thảm nhất là những anh bị thương nặng , họ bò lết dưới đất , máu mủ từ vết thương túa ra , đau đớn nhưng với bản năng sinh tồn , họ vẫn cố lết đi khuất mắt những kẻ chiến thắng cùng dòng máu, màu da nhưng tàn bạo vì theo chủ thuyết cộng sản.

kiếp người  với cuộc sống, không ra người của dân VN dưới chế độ cs , đã được cuộc bỏ phiếu bằng chân ,  thà chết trong rừng sâu, vùi thây dưới biển cả còn hơn sống với cs . cuộc di cư vĩ đại đánh động lương tâm toàn thế giới. người lành lạnh, có sức khỏe,  còn khó sống  như thế,số phận , cuộc đời  các anh TPB thì thê thảm như thế nào, chắc không kể ,thì ai có đầu óc cũng tưởng tượng ra được và không cầm được nước mắt.

ngày 28/04/2014 đón tiếp 440 TPB VNCH đến tham dự “NGÀY TRI ÂN QUÝ THƯƠNG PHẾ BINH VIÊT NAM CÔNG HÒA ”  tại tu viện dòng Chúa Cứu thế ( 38 Kỳ Đồng , q3 , Sài Gòn). đón tiếp các ông , gồm những vị : Cha Giám tỉnh DCCT Vinh sơn Phạm Trung Thành , cha Giuse Hồ Đắc Tâm cha sở giáo xứ ĐMHCG, SG. quý Chức sắc các tôn giáo đại diện PGHH,  PGVNTN , Cao Đài và Tin Lành trong hội đồng liên tôn . cùng tất cả thiện nguyện viên, những người yêu mến các mảnh  đời khốn cùng,  bị vất sang lề xã hội, bởi dã tâm, quyết trả thù của đảng CS cầm quyền ở VN.( ai cũng biết PGVNTN  nhiều lần tổ chức giúp TPB ,tại Chùa Liên Trì, bị công an kết hợp với côn đồ chặn đường vào chùa , xông và tận nơi đánh đập và chặn đường về để giựt lại quà của TPB. chưa kể về địa phương bị xách nhiễu, dằn mặt trả thù.)

cha Vinh Sơn GT  tâm tình, khai mạc:” quý TPB sống trong thời loạn , đã hy sinh một phần thân thể để bảo vệ miền Nam tự do. Những người bạn của tôi có người đã ra đi vĩnh viễn , có những người cũng cụt tay, cụt chân và đau khổ như các anh . gần 40 năm qua không phải chúng ta quên nhau, nhưng hoàn cảnh , thời thế đã ngăn cản chúng ta gặp nhau. Nhưng   hôm nay thuận lợi hơn, cũng là ngày Giáo hội CG mừng đại lễ Phục Sinh , Chúa Giêsu   đã đau khổ, và chết  nhưng Chúa cũng đã sống lại . nơi thân xác phục sinh của Chúa vẫn còn đó những dấu đinh , vết đòn roi, đau đớn hằn lên. với sự Phục Sinh Chúa đã mang hy vọng ,  niềm vui  và hạnh phúc cho nhân loại . Chúng tôi tổ chức trong dịp đại lễ Phục Sinh là muốn chuyển đến các anh tin mừng ấy. chúng ta không thể xóa đi ký ức, nhưng hôm nay chúng ta đã gặp nhau trong  niềm vui và bình an .”

tưởng rằng đã bị lãng quên, các ông lầm lũi sống nốt kiếp này trong, buổn tủi, nhục nhằn, trong một xã hội đảo điên vì sự cai trị vô đạo đức , đi ngược lại với những giá trị nhân bản . Hôm nay họ như được tái sinh trong tinh thần , sự hy sinh của họ không phải là vô ích . tất cả các ông lặng người đi trong vòng tay ấp áp của nhà dòng CCT,  họ vỡ òa,  xúc động sau lời tâm tình của cha GT Vinh sơn . ông Tâm một TPB nghẹn ngào ” ba mươi mấy năm chúng tôi bị bỏ rơi bên lề xã hội , nay được DCCT, quý ân nhân tổ chức cho chúng tôi , tụ hội lại găp gỡ nhau , thăm hỏi , khuyến khích tinh thần nhau, ngỡ rằng chẳng còn ai nhớ,  chúng tôi thật là xúc động khi thấy rằng  quý vị còn  nhớ đến chúng tôi, là những người đổ máu, mất đi một phần thân thể cho đất nước này, chúng tôi tự hào là quân nhân VNCH”.

Cha Giuse chánh xứ  tiếp lời :” linh đạo của DCCT là loan báo tin mừng cho người nghèo , người bị bỏ rơi , bị loại trừ. quý TPB   là người cùng khổ về mọi phương diện suốt 40 năm qua, nên Chúng tôi có bổn phận loan báo tin mừng, an ủi cho quý ông. không nên chính trị hóa việc bác ái .”  Ngày Tri ân TPB VNCH phần 1:

https://www.youtube.com/watch?v=WQBcCzEEooI&index=150&list=PLAJiPakqG-_lm7hJAYV2zZYP-FRwm9XGX

Ngày Tri ân TPB VNCH phần 2:

https://www.youtube.com/watch?v=cUCOYYu7vYc&index=149&list=PLAJiPakqG-_lm7hJAYV2zZYP-FRwm9XGX

theo số liệu của DCCT : trong ngày Tri ân 28/04/14 có  435 người chính thức ghi danh, 385 người đến tham dự. 50 người, một số bệnh nặng không đi được , một số bị công an nhăn chặn . ban tổ chức sẽ đi thăm và chuyển quà cho các anh đến tận nhà.

những tấm ảnh cám động :

http://www.chuacuuthe.com/2014/04/mot-so-hinh-anh-ngay-tri-an-quy-ong-thuong-phe-binh/

sau khi buổi Tri Ân TPB diễn ra , được cả thế giới khâm phục  và yêu mến hình ảnh và tường thuật những tâm tình của quý cha DCCT cũng như các anh TPB.  Xuất hiện trên các báo đài ở hải ngoại.  mọi người  VN khắp nơi gửi về nhà dòng những lời cám ơn , những  sự ủng hộ một việc làm đầy nhân ái , can đảm đem tin mừng đến cho những người cùng khổ,  nhưng cũng là những người mà chế độ cs rắp tâm trả thù. Ngay cả web site của trung ương DCCT ở  Rome  cũng đăng,  ủng  hộ việc làm đúng đắn của  tỉnh dòng VN , trợ giúp TPB :  http://www.cssrredemptoristi.com/…/redemptorists-reach-out…/

tiếp theo phòng CLHB thuộc DCCT Sài Gòn  còn tổ chức,   tính đến nay là 6 đợt khám chữa mắt , khám sức khỏe tổng quát , cấp phát xe lăn ,  xe lắc,  kính mắt ,  nạng  và gậy tùy theo nhu cầu của quý ông TPB.

trước DCCT  nhiều tổ chức kể cả trong nước  cũng như hải ngoại  đã quyên giúp TPB VNCH , nhưng phần nhiều  chỉ là giúp về vất chất ,  còn cái quý nhất ,  DCCT mang đến cho họ là tinh thần,  danh dự của họ được phục hồi ,  nhân phẩm được đề cao . trước đây họ bị nhà cầm quyền phỉ nhổ là phế binh ngụy , lây lất  kiếp sống thừa . nay họ có quyền hy vọng mọi người phải tôn trọng họ , tri ân họ  vì đã đổ máu , hy sinh một phần thân thể cho lý tưởng tự do của dân tộc VN .

đến đợt thứ 7 thì bị ngăn trở đột ngột bởi LM tân GT, DCCT là Giuse Nguyễn Ngọc Bích ,  cận ngày diễn ra,  gây bất bình cho  công luận trong và ngoài nước . số phận của TPB sau 40 năm tưởng được an ủi phần nào . cánh cửa yêu thương bị một số người nhẫn tâm đóng sập xuống .

như Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi mọi tín hữu trong tháng 5 này hãy cầu nguyện: “Loại bỏ nền văn hóa dửng dưng.  Chúng ta hay lưu tâm đến anh chị em của mình nhất là những người đang đau bệnh và nghèo khổ”.

Qua hai nhiệm kỳ  của Cha nguyên GT Vinh sơn , DCCT đã thực hiện linh đạo của dòng thừa sai , đem tin mừng đến mọi thành phần , nhất là người nghèo bị bỏ rơi , lên tiếng bênh vực những người bị  áp bức bất công , với những cách cụ thể nhất. được mọi người đón nhận sốt sắng ,  được những người đau khổ đón nhận tình yêu của Chúa Kito Phục Sinh  ngang qua nhà dòng , cũng từ đó nhiều người đã nhận biết   Thiên Chúa là Tình Yêu , Là Sự Thật và là Sự Sống vĩnh cửu.

xin mọi người cùng lên tiếng , cũng như cầu nguyện để nhà dòng tiếp tục sứ vụ vì người khốn khổ nghèo khó vật chất, cũng như  tinh thần , người đói công lý cũng như đói nhân quyền ở xã hội VN nam ngày nay.  can đảm bước theo chân thầy Chí thánh Giêsu như đã thực hiện trong những năm vừa qua .  đã trổ sinh hoa trái , đánh động lương tâm thế giới, như Thượng viện California vừa thông qua nghị quyết SJR 5, kêu gọi chính phủ Mỹ cho TPB và gia đình họ được định cư ở Mỹ

http://www.vanews.org/2015/05/thuong-vien-california-thong-qua-nghi.html

vinh sơn Lý Thanh Liêm

liemlyfr@gmail.com11140410_10204759578883952_4534918416605467897_n

Bình luận về bài viết này

Filed under Uncategorized

Xin Hội Đồng Giám Mục Việt Nam Đừng Đè Thêm Gánh Nặng Lên Đầu Giới Trẻ Công Giáo (Phần 2)

Xin Hội Đồng Giám Mục Việt Nam Đừng Đè Thêm Gánh Nặng Lên Đầu Giới Trẻ Công Giáo (Phần 2) PDF Print E-mail
Tác Giả: Blog Tâm & Tầm
Thứ Hai, 14 Tháng 6 Năm 2010 11:44
Vậy cho nên, với tư cách là một người con của Mẹ Hội Thánh, là một thanh niên Việt Nam mang trong mình dòng máu Chúa Kitô, khẩn xin các Đức Giám mục hãy tỏ rõ thái độ trong việc bảo vệ công lý, hòa bình và quyền tự do tôn giáo theo đúng Giáo luật.

Chính vì lẽ ấy mới có đất màu mỡ cho cái tổ chức “vật đội lốt người”, là ủy ban đoàn kết Công Giáo thoái mãi tự tung, tự tác và lũng đoạn. Để đến nổi ngay cả những người tri thức, kể cả sinh viên cũng không còn biết đó là tổ chức của Giáo Hội hay của đảng cộng sản, chứ chưa nói đến những người giáo dân thôn quê thật thà nhưng ít học. Rồi vì cái lợi trước mắt nên Linh mục, chủng sinh, các thầy, các xơ, Ban hành giáo… lôi kéo nhau gia nhập vào, tay bắt mặt mừng, ôm vai bá cổ đồng thanh tung hô cám ơn đảng và chính quyền đã “tạo điều kiện…”. Khi tham gia vào, những con người đó được tiêm chích cho một tư tưởng ngây ngô “không làm điều gì xấu là được”. Thật là lỗ bịch bởi họ không còn phân biệt thế nào là làm điều xấu, thế nào là tiếp tay cho kẻ tiêu diệt đạo Chúa, thế nào là đồng tình khi đồng đạo bị sách nhiễu, thế nào là che dấu điều xấu, thế nào là làm gương xấu và thế nào là cùng chia chác hoa lợi từ việc xấu mà có… Tôi thất vọng và buồn cười vì ngay cả những Linh mục cũng phát ngôn đúng một mẫu sẵn như thế? Vẫn biết rằng tất cả là tự do, là quyền và không ai được phép kết án nhưng tôi vô cùng khinh bỉ những hạng người ba phải, lươn lẹo, lừa lọc giáo dân chân chính. Tôi nghĩ những hạng người công giáo đó đã phạm tội bất trung, bất tín và bất nghĩa. Họ đáng kinh tởm hơn cả những người cộng sản khát máu.
Trong một chừng mực nào đó, GHCG Việt Nam (cả vật chất lẫn tinh thần, cả tài sản lẫn con người) trong thời gian qua, chỉ là phương tiện để một số cá nhân lợi dụng tổ chức HĐGM, mang ra thể chấp với nhà nước cộng sản để đổi lấy sự an toàn. Mặc dầu sự an toàn đó có thể là với mục đích “xây dựng” Giáo Hội địa phương ( ở đây tôi không dám phán xét đến lợi lộc cá nhân). Song điều tổi thiểu và dễ nhận ra nhất trong sự an toàn này là thái độ im lặng bàng quang, dĩ hòa vi quý, khôn ngậm miệng khỏe khanh tay, người sao ta vậy, cao hơn một tý là bằng mặt nhưng không bằng lòng, ngậm bồ hòn làm ngọt… Nhờ đó sẽ đỡ phiền phức khi về nhiệm sở riêng. Các Ngài mà cũng sống như thế, chẳng trách gì cán bộ của đảng cộng sản thi nhau tham nhũng, hối lộ, cướp bóc và chiếm đoạt của dân. Hèn gì trong xã hội Việt Nam bây giờ những người không tham nhũng, vạch mặt quan tham, những người hy sinh sự nghiệp để đấu tranh dân chủ, những Mục tử như Nguyễn Văn Lý, như Ngô Quang Kiệt được gọi là “thằng khùng-con điên”.

Như vậy, về phía các Linh mục và giáo dân đã có ủy ban đoàn kết, các Giám mục thì có Hội đồng. Trên một khía cạnh nào đó, những tổ chức này chính là “tai mắt” của chính quyền cộng sản. Nó trở thành một cái thòng lọng cho bất cứ người nào tham gia vào. Đó là chính sách “vô sản hóa” rất thâm độc của chế độ cộng sản (hẹn dịp khác tôi sẽ nói về chính sách này). Cũng giống như những tổ chức khác của UBMTTQ; Ban đầu mới thành lập ai cũng nhiệt tâm nói nhiều, đóng góp ý này, kiến nọ nhưng sau một thời gian hoạt động, mới biết thì ra đang có một thế lực, một số tên giấu mặt nào đó quyết định mọi vấn đề. Nói là một chuyện nhưng làm thì lại việc khác… cộng sản mà, biết vậy nhưng không thay đổi được… Rồi thời gian dân qua mau, những người quân tử luôn phải nhường bước cho kẻ tiểu nhân, nhưng đến lúc đó đã bị rơi vào thế kẹt: “bỏ thương, vương nặng”. Thế là trong tổ chức người quân tử không bằng kẻ tiểu nhân, trong mắt chính quyền Giám mục cũng chỉ là những người nói một đàng, làm một nẻo; Giám mục cũng là những người chỉ biết dơ tay mỗi khi biểu quyết để gọi là đồng thuận, hoặc vỗ tay khi có người đọc diễn văn bi bô cám ơn đảng và chính quyền… Phải chăng trong mắt chính quyền thì các Giám mục đáng kính của chúng ta cũng chỉ là: “các Kinh sư và người Pha-ri-siêu đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng…”. Thật là tiếc cho các Giám mục của Giáo Hội Việt Nam, đã không có thái độ dứt khoát ngay từ đầu nên bị sập vào vòng kim cô của cộng sản. Tôi nói thật, nếu tổ chức HĐGM Việt Nam đích thực là vì giáo dân, vì người ngheo, vì tầng lớp bị áp bức bởi chính quyền cộng sản, thì những người lãnh đạo của tổ chức này đã phải vào tù, hoặc ít nhất là bị sách nhiễu, gây phiền hà chứ làm gì được ung dung tự tại để… Giáo dân Việt Nam không thể hết trăn trở và tự hỏi: Tại sao mãi tới giờ mà Ủy ban Công lý và Hòa bình vẫn không thể xuất hiện trên Đất nước Việt Nam???

Nói tóm lại, cái tổ chức HĐGM Việt Nam trong những năm qua đã không có ích cho GHCG, mà chỉ có lợi cho chính quyền cộng sản. Hay nói cách khác là tổ chức này hoạt động và tồn tại không phải vì quyền lợi của giáo dân công giáo Việt Nam. Điều này đã được Đức cố Hồng Y Giuse Maria Trịnh Như Khuê, nói với Ðức cố Tổng Giám Mục Philiphê Nguyễn Kim Ðiền và linh mục Nguyễn Văn Lý tại Hà Nội: “Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam không nên họp, vì họp mà không thể nói được những điều lương tâm đòi hỏi phải nói, thì thà đừng họp, càng họp càng suy yếu, tạo nên một hình ảnh không trung thực về Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam dưới chế độ cộng sản….”. Trời ơi, ngay từ cái phôi đã bị quái thai rồi thì giờ đây nó trở thành một quái vật là điều tất yếu? Các Giám mục ơi, làm cách nào và đến bao giờ thế hệ trẻ chúng con khắc phục được chừng ấy năm? Trong khi bây giờ, tại thời điểm này các Ngài vẫn chưa bắt đầu thay đổi?

Chúng ta là con cái sự sáng nên hiểu vấn đề cho thấu đáo, để khỏi đôi co qua lại với cái tổ chức quái dị này, nhằm tránh phạm tội bất kính với các Giám mục của Chúa. Hoặc ít nhất chúng ta cũng biết để khỏi ngỡ ngàng khi thấy tiếng nói phát ra mang danh nghĩa của HĐGM không bênh vực cho con cái Giáo Hội, bởi đơn giản là chúng ta, những người dân bình thường bị áp bức đã không đủ “tiêu chuẩn” làm đối tượng để tổ chức này chăn dắt. Ngay từ đầu, những Kitô hữu thuần tính, những người công giáo không tiến bộ (theo nhà nước cộng sản), hay bất kể người dân nào không đứng vào hàng ngũ “con người mới của XHCN”, thì đã không được gọi là “đoàn dê” của tổ chức giả danh Hội đồng Giám Mục Việt Nam. Và dẫu có học ít đến mấy đi nữa chúng ta cũng đủ trí khôn để hiểu điều này: không thể đòi hỏi “một người câm biết nói, một ông điếc biết nghe, một anh què nhảy nhót hay môt chú cụt tay hoan hô” giống như người bình thường được.

Vậy cho nên, với tư cách là một người con của Mẹ Hội Thánh, là một thanh niên Việt Nam mang trong mình dòng máu Chúa Kitô, khẩn xin các Đức Giám mục hãy tỏ rõ thái độ trong việc bảo vệ công lý, hòa bình và quyền tự do tôn giáo theo đúng Giáo luật. Mặt khác, để bảo toàn danh dự và giá trị của người Mục tử đã dám bỏ hết tất cả vinh hoa phú quý trần gian, đi theo Chúa Kitô là sự thật thì các Ngài cũng nên dứt khoát bãi bỏ cái tổ chức HĐGM vì đã bị lạm dụng (bởi không thể cải tố được nữa). Đồng thời thông báo và đưa ra quan điểm của Giáo Hội đối với tổ chức UBĐK Công Giáo cũng như những giáo dân, linh mục thuộc tổ chức này. Xin các Ngài đừng bắt giáo dân tiếp tục bước đi trong mịt mù trên con đường: “Tự do tôn giáo theo định hướng XHCN”. Chúng con nghĩ đã đến lúc các Giám mục Việt Nam, cần thực hiện lời dạy của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II là “Đừng Sợ Hãi”. Thời đại thông tin và toàn cầu hóa rồi, Giáo Hội nên có trách nhiệm thương và dạy cho chính quyền cộng sản những điều họ chưa biết. Nhất là không cần phải xin phép những gì thuộc quyền của Giáo Hội, mà chỉ cần báo cáo nếu chính quyền muốn được tôn trọng. Xin các Ngài dừng ngay việc đổi TỰ DO để lấy AN TOÀN, đừng tiếp tục để tình trạng “người sáng tự nguyện chìa tay cho thằng mù dắt” nữa.

Đã là con người thì không ai có thể tránh khỏi sai lầm, song nhận ra sai lầm để sửa đổi, hay ít nhất là chặn đứng lại để không tiếp tục lún sâu…(muôn ngàn lần con không dám nói chuyện tri thức với các Ngài). Nhưng trong mấy chục năm qua, những mất mát của Giáo Hội như thế đã là quá đủ, để những người thông minh sáng suốt như các Ngài rút ra một bài học Lớn. Nhờ đó thế hệ trẻ Công Giáo chúng con được giảm đi một gánh nặng về phía Giáo Hội trong tương lai. Bởi như các Ngài đã biết: Đất nước mình đang ngày một tan hoang, nợ nần chồng chất, con người dối trá, đạo đức suy đồi, nhân phẩm suy kiệt… Gánh nặng đó đang đổ ập lên đầu thế hệ trẻ Việt Nam, trong đó có cả người Công Giáo như chúng con.

Ngược lại, những vị Giám mục nào vì sợ hãi không dám nói lên sự thật về những thổi nát của chính quyền cộng sản, vi phạm quyền cơ bản của con người… Đặc biệt những vị Giám mục nào đã và đang tiếp tay cho cộng sản thì hãy vì trách nhiệm với thế hệ trẻ công giáo Việt Nam mà xin Đức Thánh Cha từ chức. Đơn giản thôi, Bởi vì vận mệnh tương lai của Giáo Hội phụ thuộc nơi những quyết định hiện tại của các Ngài. Con khẩn thiết cầu xin các Đức Giám Mục Việt Nam ghi nhớ cho con điều này: Thế hệ trẻ là tương lai của Giáo Hội, của Đất nước nhưng ngược lại; Tương lai của thế hệ trẻ công giáo Việt Nam đang nằm trong tay của các Giám Mục hiện tại.
Được như thế, chúng con hứa một lòng noi theo gương các Ngài để xả thân mình, sẵn sàng đáp lại lời kêu gọi của Giáo Hội trên con đường đòi Công lý và Sự thật cho đồng bào, đồng đạo cũng như xây dựng và bảo vệ quê hương Đất nước Việt Nam thân yêu. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần, Thế hệ trẻ Công giáo Việt nam nguyện noi gương các Thánh Tử Đạo, đem mạng sống mình kính dâng lên Chúa, để được đổi lấy Tự do-Dân chủ cho Dân tộc Việt Nam, cho Giáo Hội Việt Nam. Xin các Giám mục Việt Nam hiểu và hành động dứt khoát để cứu giúp thế hệ trẻ chúng con !

Ghi chú: * Do hậu quả không tốt nên chúng ta phải bất đắc dĩ đi tìm nguyên nhân, chứ nếu bình thường cứ theo sự thật thì đã không có bài này.
* Trong bất cứ lúc nào tôi cũng không muốn Mẹ Hiền Hội Thánh bị tổn thương nên cũng rất đau lòng khi viết và đăng bài này. Tuy nhiên với thiện ý đi tìm sự thật trong tinh thần yêu mến và trách nhiệm, để mong phần nào xây dựng một Giáo Hội Việt Nam xứng đáng là chỗ dựa niềm tin cho thế hệ trẻ trong tương lai. Vì vậy có những quan điểm hay từ ngữ “quá mạnh” thì xin người đọc thông cảm! Nếu có đụng chạm đến một người nào đó thì chỉ vì quý vị là thành viên của cái tổ chức tôi đang đề cập đến, chứ không phải với tư cách cá nhân.

Bình luận về bài viết này

Filed under Uncategorized

LINH MỤC VIỆT NAM GỐC MỸ

dangcl1
LINH MỤC NGƯỜI Việt gốc MỸ
Khi được lệnh sang tham chiến tại Việt Nam năm 1966, một người lính trẻ Hoa Kỳ không bao giờ nghĩ mình có thể gắn bó với đất nước này đến nỗi xin ở lại để trở thành linh mục.
Trở thành bằng hữu
Sau ngày 30 tháng Tư, ông chỉ mong được chính quyền mới cho ở lại cùng giáo dân của mình. Tháng Mười năm 1975 ông bị đẩy lên máy bay qua Thái Lan mà không có một mảnh giấy tuỳ thân. Rồi cuộc đời đưa đẩy ông về làm linh mục tại tỉnh Udonthani miền Bắc Thái Lan từ ngày ấy đến giờ.
Cựu chiến binh John Thabor tức linh mục Dương Tấn Bằng, kể lại với Thanh Trúc câu chuyện từ người lính Mỹ đến người tu sĩ Công giáo Việt Nam: “Tên của cha bằng tiếng Mỹ là John Thabor. Năm 1966, cha đi lính ở Việt Nam, rồi có một ông cha đỡ đầu gọi là cha dưỡng phụ Nguyễn Lân Mẫn, bây giờ ngài đang làm giáo xứ đại chủng viện ở Huế của Xuân Bích, đổi tên John Thabor thành Dương Tấn Bằng. Họ Dương là người nước ngoài, Tấn là tiến tới, Bằng là bằng hữu. Dương tấn Bằng có ý nghĩa là một người nước ngoài đến để làm bạn.”
Thanh Trúc:
Thưa cha, khi bắt đầu đi tu thì cha làm thế nào để ra khỏi quân đội?
LM Dương Tấn Bằng:
l
“Lúc đầu rất rắc rối vì chính phủ Việt Nam đòi phải có giấy phép của chính phủ Mỹ, một thẻ lưu trú, một hộ chiếu. Thế mà Toà Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn nói là nếu không có thẻ lưu trú của nước Việt họ sẽ không cấp hộ chiếu.Bộ Nội Vụ của nước Việt Nam thì nói nếu không có hộ chiếu họ sẽ không cho thẻ lưu trú. Cho nên ban đầu coi như là không được. Nhưng mà các cha vận động bằng cách nào không hiểu mà đâu ra đấy cũng là ý Chúa. Cha được giải ngũ ra và bắt đầu vận áo dòng và học tiếng Việt để sửa soạn vào Đại Chủng Viện ở Sài Gòn”.
Thanh Trúc:
Cha học tiếng Việt như thế nào, có dễ học hay không?
LM Dương Tấn Bằng:
“Khó như quỷ! Lúc đầu cha không biết những cái dấu, tiếng Việt Nam là độc âm, mỗi âm một tiếng khác nhau. Lúc đầu thấy khó lắm mà sau một thời gian học với các chú tiểu chủng sinh ở chủng viện thánh Gioan 23 ở Đà Nẵng thì đã bắt đầu biết tiếng và nói được.”
Thanh Trúc:
Từ một G.I trong quân đội Mỹ rồi trở thành một linh mục thì có cái khó khăn nào mà cha cần phải vượt qua?
LM Dương Tấn Bằng:
“Cái khó khăn là tại tâm, vì chính cha tự hào cha là người tốt, cha là người biết mọi sự vì là người Mỹ. Cái mặc cảm tự tôn cho rằng không ai có thể dạy cha. Ngay cả vấn đề sống và giữ đức tin, cha đã sống cuộc đời không phải là vị tha mà vị kỷ, sống đạo vì cha mẹ bắt đi lễ nhà thờ nhà thánh.
Mà khi sang Việt Nam thì thấy làm sao mà trong một nước có chiến tranh, trong sự đau khổ sự thiếu thốn về vấn đề vật chất mà họ vẫn có đức tin mạnh như vậy. Điều đó làm cho cha bắt đầu nghĩ nhiều đến đời sống nội tâm của mình, nên khi bắt đầu tu cha có một sự phấn khởi, cảm thấy mình lĩnh hội và hiểu sâu xa về vấn đề đức tin hơn.”
Thanh Trúc:
Đến năm nào thì cha thụ phong linh mục?
LM Dương Tấn Bằng:
“Học xong chương trình Đại Chủng Viện năm 1974. Đáng lẽ ra chịu chức linh mục ở tại Việt Nam mà cha chịu chức Sáu do Đức Cha Phạm Ngọc Chi ở Đà Nẵng truyền chức cho cha. Vì mười năm trời không về nhà một lần thăm cha mẹ nên cha đã xin phép Đức Cha cho về Mỹ chịu chức ở bên Mỹ. Đức Cha đã viết thư trao quyền cho giám mục ở bên Mỹ truyền chức cho cha với mục đích sẽ tu cho địa phận Đà Nẵng.Cha chịu chức ở bên Mỹ khi về thăm quê quán xong rồi trở lại Việt Nam năm 1974.”
Ký ức về 30 tháng 4
Thanh Trúc:
Trong biến cố 30 tháng Tư 1975 thì cha đang ở đâu?
LM Dương Tấn Bằng:
“Lúc đầu cha làm cha phó trên một giáo xứ cách thành phố Đà Nẵng vài chục cây số. Thế rồi Đà Nẵng thất thủ, các “bác” ở ngoài Bắc vào và đã bắt cha. Họ để cha ở đó một thời gian và mỗi ngày cha phải đi từ trên núi xuống công an để trình diện và đối thoại với họ.Sau đó Đức Cha Chi chuyển cha từ Phú Thượng ở trên núi xuống thành phố mà ngài không xin phép nên chính phủ bắt lẽ là ngài không có quyền đổi nhân sự từ chỗ này đến chỗ khác
.
Họ đã bắt cha giam một đêm và cho lính gác điệu cha từ Đà Nẵng vào Sài Gòn. Khi
lên xe thì đi với một cán bộ nam và một cán bộ nữ. Trên xe đó họ đã nói với những
người trong xe rằng người cán bộ nữ là vợ của cha. Cha nói cha độc thân, không
phải vợ của cha đâu.
Khi tới Nha Trang phải nghỉ lại một đêm, họ muốn hai người ngủ trong phòng, cha
nhất quyết không chịu. Thế rồi họ để cha trong phòng một mình. Cha lấy ghế chận
vào cánh cửa vì ban đêm sợ họ đưa người đàn bà đó vào phòng của cha thì nguy.”
Thanh Trúc:
Theo ý của cha thì tại sao họ làm như vậy?
LM Dương Tấn Bằng:
“Họ muốn cha bị giảm giá trị linh mục. Họ không nhận cái vấn đề cha là linh mục mà họ muốn người ta nghĩ rằng cha là một người thường để mà có cái toà án nhân dân kết tội là làm cựu quân nhân đã giết người Việt Nam. Phạm tội đối với dân tộc Việt Nam thì họ trục xuất.”
Thanh Trúc:
Rồi sau đó họ đưa cha về Sài Gòn?
LM Dương Tấn Bằng:
“Sáng hôm sau lên xe đi về Sài Gòn. Lúc đầu họ đưa cha vào chỗ của các cha Dòng Tên, mà cha nói là cha đã từng học Đại Chủng Viện số 6 Cường Để. Người cán bộ nam nói là phải trả lại tiền vé xe, cha không có tiền, thế là cán bộ nam để cha tự do đi vào chủng viện số 6 Cường Để, vay tiền các cha mà hoàn lại cho anh ta.
Tới cái ngày họ muốn điệu cha ra phi cảng để ra khỏi Việt nam, họ đã đưa vào Bộ Nội Vụ, có một loại giấy tờ mà trong đó, câu thứ mười bảy hỏi tại sao ông muốn xuất cảnh. Cha nói cha đâu có muốn xuất cảnh, cha đã xin các ông đổi ý và cho cha ở nước Việt Nam luôn. Người cán bộ đưa giấy cho cha không biết làm sao, mới đưa cha lên lầu. Người ở trên lầu nói cha về để chờ xem xét chuyện này sau.
Thế nhưng về sau họ điệu cha ra phi cảng Tân Sơn Nhất, lên máy bay của hãng Pháp, đi qua phi trường Dong Muang ở Thái Lan tháng Mười năm 1975.
Những người hữu trách đuổi ra khỏi phi cảng để cha đi đâu thì đi tại vì cha không có giấy tờ nhập quốc, không có một giấy tờ từ Việt Nam đến đây như là di dân hay là người bị vấn đề về chính trị.
Thế rồi có một người đã lấy tiền ra cho cha đi tắc xi vào thành phố. Người đánh tắc xi hỏi đi đâu. Cha cứ làm dấu thánh giá và làm dấu hiệu đi đến một cái nhà thờ nào. Cuối cùng họ đưa tới một nhà dòng.”
Linh mục Dương Tấn Bằng, bị trục xuất từ Việt Nam sang Thái Lan năm 1975 vì là người Mỹ và chỉ muốn được ở lại với giáo dân Việt Nam. Đến thủ đô Bangkok không giấy tờ, không tiền bạc, không biết tiếng Thái, ông bị đuổi ra khỏi phi cảng quốc tế Dong Muang. Thế rồi hoàn cảnh đưa đẩy ông gặp được Đức Cha người Hoa Kỳ đang ở Udonthani miền Bắc Thái Lan, nơi ông về trú ngụ và làm việc từ đó đến giờ.
LM Dương Tấn Bằng kể rằng:“lúc đầu thì học tiếng Thái ba bốn tháng, thế rồi Đức Cha người Hoa Kỳ qua nước Mỹ đi giảng để kiếm tiền giúp địa phận. Lúc đi ngài cho cha làm cha xứ của nhà thờ chính toà ở Udon đây. Một thời gian mấy tháng trời ở với Đức Cha thì mới đổi về một giáo xứ ở cách Udon độ hai trăm năm chục cây số.”
Thanh Trúc:
Cha có bao giờ trở lại thăm Việt Nam ?
LM Dương Tấn Bằng:
“Có một lần, năm 1991, mẹ ở bên Mỹ qua đây thăm, cha muốn mời mẹ qua Việt Nam để coi cái chỗ cha đã từng học và những người bạn cùng lớp làm cha xứ ở đó. Đã nộp đơn qua một công ty du lịch, đã chờ đợi năm bảy ngày mà họ không trả lời, nghĩa là họ không cho phép”.
Hướng về Việt Nam
Thanh Trúc:
Trong lòng cha thì cha nghĩ cha là người Mỹ, người Việt Nam hay là người Thái Lan?
LM Dương Tấn Bằng:k
“Thật ra không phải cha mất gốc mất rễ nhưng vì đã muốn dâng hiến cả đời cho giáo dân Việt Nam cho nên cái lòng trí của cha bao giờ cũng hướng về đó. Hiện tại ở nước Thái, ở Udon, có nhiều người từ Trung Bộ, người Nghệ An, Vinh, Hà Tĩnh, đến đây làm việc. Họ đến dự lễ ở nhà thờ mà cha đi làm lễ chiều này là thứ Bảy. Cứ Chúa Nhật cuối tháng là có cha người Việt Nam, cha Đức và cha Trực. Ba cha giảng bằng tiếng Việt Nam làm lễ bằng tiếng Việt Nam cho giáo dân người Việt Nam. Cho nên cũng do sự gần gũi và cũng ấm cúng trong lòng với người Việt Nam như xưa.”
Thanh Trúc:
Nhắc về ngày 30 tháng tư năm 1975 ở Việt nam, kỷ niệm nào làm cho cha nhớ nhất?
LM Dương Tấn Bằng:
“Tự vì cha đã ở trong chế độ mới với các “bác” những năm bảy tháng, nên cha cũng đủ biết những sự giả dối của họ. Có kỷ niệm là khi đó họ đưa dân lên khai thác ở trên núi và cha đã đi với họ.
Thế rồi buổi tối khi làm việc xong thì cha đã làm lễ ở ngoài trời và đã giảng về sự sống. Cha đã chơi chữ, nói đến ái quốc đến nước đến sự sống của con người bắt đầu ở trong nước ra. Cha đã phủ nhận giá trị của lý thuyết Marx Lenine. Hôm sau họ mời cha xuống núi, về giáo xứ Đà Nẵng, không cho ở với giáo dân nữa.”
Thanh Trúc:
Đó là kỷ niệm mà cha nhớ nhất.
LM Dương Tấn Bằng:
“Cha đã nói khi nào cha có thể mặc áo linh mục về Việt Nam thì cha sẽ về Việt Nam. Còn nếu họ bắt cha vận thường phục thì cha không về. Tại vì cha đã bị trục xuất với tư cách là linh mục thì cha sẽ về thăm với tư cách là linh mục. Thế thôi. Cha vẫn yêu nước Việt Nam.”
Thanh Trúc:
Thưa linh mục Dương Tấn Bằng, xin cảm ơn tất cả những lời chia sẻ của linh mục.
Thanh Trúc
nguyo6n:www.bacaytruc.com

Bình luận về bài viết này

Filed under Uncategorized

HỘI THẢO VỀ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐÔNG. NGOẠI XÂM TC, BÁN NƯỚC VC

IMG_9403
trước hành vi xâm lấn lãnh thổ, biển đảo thuộc chủ quyền Việt Nam, một cách trắng trợn. với sự tiếp tay của nhà cầm quyền csVN bán nước. để xoa dịu dư luận, cũng như đánh lừa người dân, bọn chúng chỉ chống cuội hoặc chỉ tuyên bố này nọ cho có lệ.
TC đã hoàn thành sân bay quân sự trên đảo Phú Lâm, thuộc Hoàng Sa xâm chiếm của VN trước đây. CsVN vẩn nhắm mắt làm ngơ, vẫ sẵn sàng đàn áp những người yêu nước chống ngoại xâm TC, các lãnh đạo cs vẫn lũ lượt qua Bắc Kinh chờ chục nhận lệnh. đất nước VN đang được bàn giao dân dân, trước tình hình nguy ngập.
đài BYN tại Houston TX tổ chức một buổi hội thảo với chủ đề: chủ quyền BIỂN ĐÔNG , quan hệ MỸ-VIỆT -TRUNG. khai mạc lúc 1 giờ chiều Chủ Nhật 26/10/2014
– điều hơp viên ô.Hưng yên (phóng viên đài BYN )
-với 3 diễn giả nổi tiếng :
1/ ô. Lý Thái Hùng (TBT đảng Việt Tân)
2/ GS Nguyễn Ngọc Bích ( washington, DC)
3/ TS Mai Thanh Truyết (Houston, TX)
các thân hào nhân sĩ, hội đoàn, báo chí tại Houstonvới đông đảo đồng hương người việt yêu nước quan tâm đến tổ quốc và đồng bào VN trong nước đến tham dự cũng như trên làn sóng trực tiếp .
trong suốt hơn bốn giờ đồng hồ( từ 1-5g30) với một điều hợp viên chuyên nghiêp, kiến thức sâu PV Hưng Yên cùng với 3 diễn giả nổi tiếngnói trên, với kiến thức uyên bác cùng với lòng yêu nước, đồng bào sâu sắc. Đã làm nóng hội trường, thảo luận sôi nổi, với những câu hỏi sâu , sắc đặt thẳng vấn đề và yêu cầu đưa ra giải pháp của ông Hưng Yên .
Những câu Trả lời của các diễn giả lần lượt trả lời củng không kém phân thú vị . Mang đến kiến thức , lịch sử , đưa đến nhận thức cho thính giả. XIN MỜI QUÝ VI quan tâm theo dõi qua đường link dưới đây :




Bình luận về bài viết này

Filed under Uncategorized

BẠO LỰC, ĐẤUTỐ,CƯỚP SẠCH, DIỆT TẬN

Là một phần nếu không muốn nói là chư hầu của cs quốc tế, đứng đầu là Liên sô, Trung Cộng csVN phải cùng một con đường, mà còn phải nhận lệnh để thực hiện xây dựng xã hội chủ nghĩa(XHCN) để tiến lên thiên đường cộng sản(cs)
Ngay từ những ngày đầu tiên nắm được quyền cai trị Miền bắc VN, đảng cs đã khởi động XHCN từ cái gọi là Cải Cách Ruộng Đất dựa trên 4 nền tảng: bạo lực, đấu tố, cướp sạch, giết tận . Cũng là một cách phá hủy truyền thống dân tộc, phá hủy tôn giáo , tinh thần lâu đời của dân tộc để mở đường , tạo nền tảng cho cs phát triển ở VN. Ngày 19/12/1953 HCM với tư cách chủ tịch nước VNDCCH ký và ban hành bộ luật cải cách ruộng đất ccrd10
Chỉ nói riêng về truyền thống thân tộc, kết hợp thành làng xã yêu thương đùm bọc nhau .Hình thành lâu đời sau lũy tre xanh là một trở ngại rất lớn cho cs đi vào nhận thức của những người nông dân hiền lành chơn chất. cs muốn phong thánh cho chính những người lãnh đạo cs như Lenin , Mao, HCM luôn quảng bá và bắt buộc sùng bá các cá nhân đó . vì thế truyền thống duy tâm lâu đời của dân tộc VN kính trời , yêu Phật , giềng mối gia đình là kẻ thù không đội trời chung với cs. còn tồn tại thi không thể nào cs phát triển được, còn Chúa còn Phật thì HCM sẽ không thành Thánh , thành Phật được mà còn là kẻ tội đồ, quỷ dữ. Tôn giáo cũng là một truyền thống lâu đời của dân tộc bất cứ đến từ đâu đều được Người Việt tiếp đón chân thành và biến thành một phần đời sống tâm linh, của dân tộc hiền hòa yêu chuộng công lý, chống lại cái ác sự bất công trong tâm lý lâu đời. CS phát triển bằng bạo lực nên phải mở đầu bằng Bạo lực, khủng bố (đấu tố) để Cướp sạch ( những gì chúng không có và khơi lên lòng tham của một số kẻ xấu và khủng bố tinh thần toàn dân ) diệt tận( mưu đồ giết chết toàn bộ đời sống tâm linh, tôn giáo , truyền thống lâu đời hay ít ra không còn ai dám truyền bá, cho con cháu nữa) .


Đức cha Phao lô LÊ ĐẮC TRỌNG viết trong hồi ký:
“…Những trường được xây dựng để đào tạo đội cải cách. Tôi biết một trường như thế ở Phủ Lý….. Người ta dạy gì trong trường? Tôi không rõ, tất cả là bí mật. Nhưng khi thấy công việc đội cải cách làm, thì biết họ học gì, được huấn luyện thế nào?
Vậy đội cải cách đã làm gì? Xin hãy đọc những giòng HK sau đây:
“… Vào phòng họp, đội dõng dạc tuyên bố: ‘Bà con nông dân đề cao cảnh giác, vì địch nó ngồi ở đằng sau ta…’. Người ngồi sau run sợ…! Một lúc nữa, đội lại nói: ‘Bà con cảnh giác, địch nó ngồi ngay trước mặt ta’. Ngồi trước ngồi sau đều là địch cả. Không còn biết chọn chỗ nào nên ngồi? Sợ sệt và sợ sệt…!

Ai nấy ngồi yên chỗ, bắt đầu cuộc ‘đấu tố’. Tố cáo tội ác giai cấp bóc lột, đấu tranh đánh đổ giai cấp bóc lột đó. Mọi người bắt đầu cuộc kể khổ, để tố cáo tội ác của bọn địa chủ cường hào ác bá. Những tội ác được bịa đặt ra nhiều hơn và nặng nề hơn sự thật.
‘…Tôi vay hắn ta mấy bát gạo, hắn ta bắt tôi viết văn tự thế bằng một sào ruộng. Tôi không có gì trả, thế là hắn ăn không sào ruộng của tôi. Và cứ mấy lần vay như vậy, rồi không có gì trả, thế là không còn một mẩu đất để cắm dùi’.
‘Tôi cấy tô cho nó, chẳng may trời để mất mùa, vì bão lụt, nó cứ thu tô như chẳng có tai hoạ gì xẩy ra. Chẳng có gì mà nộp, nó cho người đến tháo bộ cửa, dỡ mấy gian nhà tôi….’

‘Tôi nghèo khổ, đi làm thuê cho nhà nó, ăn đói, ăn khát, nó còn đánh đập, tiền công không trả, nhà nó tìm cách đuổi tôi đi để quỵt công….’
Và nhiều thứ tội khác, chung quy chỉ là tội tàn bạo, bóc lột, đổ trên những người bị quy là địa chủ, hay ác ôn, cường hào ác bá. Có thể là tội cá biệt nhưng nay là tội chung. Ai là đối tượng thì được khoác cho những tội đó. Người nông dân thật thà chất phác, mấy ai nghĩ ra được cách tố cáo, tất cả đã được dậy bảo, được Đội ‘mớm’ cho trước.ccrd11

Thế rồi đấu, đấu tranh với địa chủ, thì phải có khí thế,chưa quen thì phải tập. Chưa có ai xuất hiện để mà đấu, thì có thể dùng cái cột nhà thay thế. Bà con và nhất là các phụ nữ. Giơ tay xỉa xói vào cái cột nhà: ‘Mày đã cướp của tao, mày đã đốt nhà tao, mày đã đánh đập tao thật tàn bạo, tao khó nhọc làm giầu cho mày, mà mày cho tao ăn đói ăn khát…’. Tất cả phải được nhuần nhuyễn, từ cử chỉ đến lời nói, để khi gặp ‘người thật’ không ngượng ngùng ái ngại.

Đến nỗi mà một người phụ nữ đứng tuổi, rất thương người cha già chị săn sóc hằng ngày. Chị nói với bố: ‘Ông có biết tôi là ai không?’. Người cha ngậm ngùi nhìn đứa con dứt ruột của mình và nói:: ‘Thưa bà, con là người đẻ ra bà ạ’. Lời thưa não nùng thảm thương, nhưng phải hỏi cái sức ma quỉ nào đó đã thúc đẩy người con chất vấn người bố như thế? Cứ đó mà luận ra những người khởi xướng!” (Trang 381-382-382)

Đức Cha Phaolô nhận định :Không ai khác, chính ông Hồ ra lệnh chỉ huy trực tiếp cuộc cải cách ruộng đất giết hại , kinh hoàng ở miền Bắc mà Trường Chinh chỉ vật thế thân chịu tội thay cho HCM. Ngài viết trong Hồi Ký như sau:
“Tuy là Tổng bí thư Đảng, là lý thuyết gia của Đảng, nhưng ít người biết đến tên tuổi ông, đến mặt mũi ông. Ông được trao cho là người thừa hành kế hoạch cải cách ruộng đất, còn ông Hồ Chí Minh ‘giả cách đứng ngoài’.

Kế hoạch đó cũng đạt mục đích phần nào, vì sau này tai tiếng đều trút trên đầu ông Trường Chinh, mà ‘Bác Hồ’ là ‘nhân từ’ chỉ bị liên hệ chút ít. Nhưng làm sao mà che mắt được dư luận nhân dân. Ông Hồ là lãnh tụ tối cao, mà ông Trường Chinh chỉ là tay chân, làm sao công việc long trời lở đất đó lại qua mắt được lãnh tụ tối cao?…” (Trang 375-376)

Vào lúc cuộc cải cách ruộng đất đang tiến vào giai đoạn kinh hoàng nhất. khi giết hại cả cha mẹ của những người chỉ huy các cấp bô đội VM, dây đàn căng quá sẽ đứt , có thể xảy ra nội loạn. nhà cầm quyền cs xoa dịu , bằng cách tuyên bố có sai lầm và sửa sai. Sửa sai như thế nào? Vì nhận ra là sai lầm nên sửa sai? thật ra là đánh ác quá xoa dịu một tí, chiêu bài không lạ gì của bọn người cộng sản? Sự thật như thế nào , chúng ta hãy đọc tiếp những chứng từ của cố Giám Mục Phaolô Lê Đắc Trọng:

“Lại bàn về sai lầm. Thiết nghĩ làm gì có thể sai lầm được? Giả sử chỉ có mình Việt Nam làm cải cách ruộng đất, chưa có đâu làm, thì còn có thể nói đến sai lầm. Đàng này các bậc thày, các bậc đàn anh đã làm, đã rút kinh nghiệm. ViệtNam chỉ việc lặp lại. Người ta đã tính từ trước sẽ có những sai sót. Có thể nói, những sai sót cố ý! Thà có giết nhầm mười người còn hơn để sót một thằng. Hoặc kinh nghiệm cho thấy là việc cải cách gây đau khổ nhức nhối chừng nào! Nên giả cách, có vài sửa sai chẳng vào đâu cả, để phần nào làm nguôi lòng dân.” (Trang 408))

Ở một đoạn khác, tác giả Hồi Ký viết tiếp:
“Trong cuốn Biên Niên Sử có nói: ‘Cuộc cải cách ruộng đất đã hoàn thành, mười triệu nông dân có ruộng cầy’. Một cuộc cách mạng long trời lở đất, mà kết quả có thế thì cũng khiêm tốn. Đó chỉ là cái khiêm tốn giả tạo, sự thực kết quả to lớn hơn vô cùng. Lấy được ruộng ở tay người địa chủ ra, không phải là việc dễ dàng. Phải có những bàn tay mạnh mẽ, đi tới tàn bạo của một chính thể độc tài chuyên chính… Lấy lại ruộng đất để chia cho những người cầy, không phải là mục tiêu chính của việc cải cách và chính việc cải cách cũng không phải là mục tiêu của cách mạng. Lấy lại ruộng đất chỉ là phương tiện để cải cách, chính việc cải cách cũng chỉ là phương tiện cho sự thống trị của giai cấp vô sản. Nói đúng ra cho sự thống trị của Đảng chuyên chính được thiết lập vững chắc.

… Cải cách ruộng đất là một cách quét sạch những địa chủ, những cường hào ác ôn, ác bá, những người có uy tín, những người có mầm mống để vươn lên. Tất cả những gì mà cách mạng cho là đối nghịch, là nguy hiểm trong hiện tại và trong tương lai. Quét sạch, để cho xã hội trở nên một tờ giấy trơn, để Đảng muốn vẽ gì thì vẽ, theo ý mình.” (409-410-411)

Hóa ra tất cả chỉ là một tấn tuồng, một trò lường gạt, đối trá không tiền khoáng hậu, chưa từng thấy trong lịch sự mấy ngàn năm của dân tộc Việt. Rút cuộc, người nông dân Việt Nam chỉ là một đám nạn nhân ngây thơ, khốn khổ bị lợi dụng, bị xúi bẩy lao đầu vào những trò bất nhân man rợ của những cuộc đấu tố dẫn tới những cuộc tàn sát đẫm máu với cái mồi do đảng và nhà nước treo trước mắt là được chia chác tài sản, ruộng nương để cuối cùng vẫn trở về với cảnh khố rách áo ôm vì phải thực hiện khẩu hiệu “đoàn kết dân tộc, tiến lên xã hội chủ nghĩa” bằng cách phải trao nộp trở lại những mảnh đất nhỏ vừa được chia chác để tham gia “hợp tác xã”! Trong HK toàn tập Phần III, đức cha Phaolô viết:

“Nông dân vô sản làm gì mà biết suy luận như thế? Người ta bảo đánh thì đánh, đập phá thì đập phá. Rồi họ mãn nguyện với mảnh bằng chứng thực. Họ được làm chủ mấy sào ruộng, để rồi ít lâu nữa sẽ rời những cái ghế chủ nhân. Bây giờ họ chưa biết thế đâu! Tấm bằng được trình bầy một cách rất lộng lẫy khổ 60 x 40 có ghi những chữ lớn với nét đỏ thắm: Giấy chứng nhận quyền sở hữu ruộng đất.
…Sau cuộc đấu tranh mệt mỏi, được thưởng bằng một tờ giấy có ghi: ‘Giấy chứng nhận quyền sở hữu ruộng đất’ là hể hả. Nhưng còn phải giữ cái thành quả đó bằng ‘tăng cường đoàn kết’, rồi ‘nâng cao cảnh giác’. Nâng cao cho đến lúc ruộng đất được đem đi dâng, còn lại mảnh bằng…

…Mấy sào ruộng rồi sẽ đưa vào hợp tác xã để ông chủ lại đi cầy thuê…
…Cái bầu trời phát quang, cái mặt đất phẳng lì lì. Muốn dựng lên cái gì thì dựng, với cái tính tàn khốc, tính quá khích, đã tạo nên bầu trời quang, và cái mặt bằng cái tính tình man rợ đó đã in sâu trong lòng, không biết phải bao nhiêu thế hệ mới xoá nổi chăng?” (Trang 413-414-419-420)
TRÍCH HỒI KÝ CỦA CỐ GM PHAOLO LÊ ĐẮC TRỌNG

ông Ngoại tôi Phero Mai Hữu Trí quê ở làng(thôn) Văn Quan, Phú Đa, Phủ lý thuộc tỉnh Hà Nam, là người giàu có nhưng nhân đức trong làng người ta gọi là ông Bá Văn, ông là Tân tòng nhưng một mực kính Chúa yêu người. ông là chánh trương giáo xứ Văn Quan là người góp công, góp của rất nhiều, để xây nên nhà thờ Thôn Văn Quan. Tuy vào thời CCRĐ cs đã chiếm dụng làm kho hợp tác xã, chuông trâu bò vẫn tồn tại hàng trăm năm còn đến ngày nay nhờ sự quan phòng giữ gìn của Thiên Chúa. sau này Năm 2004 tôi chuyển trực tiếp cho Cha FX Kiều NgọcViên lúc bấy giờ là quản nhiệm giáo họ Văn Quan $10,000 USD khoảng 160.000.000 để tu sửa nhà thờ đổ nát sau mấy chục năm bị chiếm dụng của bác anh lớn nhất của mẹ tôi , trối lại, bác đã qua đời tại Canada.
Trận đói năm 1945 cả làng Văn Quan không có người nào chết đói. Ông ngoại tôi mở kho, nấu cháo phát chẩn hằng ngày, không phân biệt lương hay giáo.
khi Việt Minh nổi lên ông Ngoại tôi cũng đã cấp lương thực, nuôi cả đại đội bộ đội Việt Minh trong làng . đến năm 1954 cũng đã rõ bộ mặt của Việt Minh thực chất là cộng sản khát máu, muốn đi di cư vào namongoaim.Vì là vùng VM kiểm soát chống di cư, không dễ dàng như ở Hà Nội . ông tôi lợi dụng đêm tối giả ăn mày đi bộ ra Hà Nội ( lúc bấy giờ bác tôi đã lập gia đình và đang ở HN) cùng với gia đình di cư vào Nam. cũng như bà Nguyễn thị Năm và bao người yêu nước giúp cho VM chống Pháp, mà họ VM thực chất là cộng sản, tha cho bà Ngoại tôi bị kẹt lại, qua hồi ký của cố GM Phao lô kể trên .không cần tả cảnh đấu tố dã man, khát máu của” bọn đội cải cách” thêm nữa.Bangoai
Bà Ngoại Maria Nguyễn Thị Tư bị đưa ra đình làng đấu tố đến chết. ông tôi vì nhớ thương bà còn kẹt lại , và đau khổ vì nghe tin đấu tố và giết hại địa chủ, ngoài bắc khi được tin bà tôi bị giết hại chết đã qua đời sau đó vài tháng năm 1956 tại Sài Gòn.
Tôi kể ra đây không vì thù oán, nhưng như một lời chứng, như những lời chứng của cố GM Phaolô và bao nhiêu nhân chứng khác, tố cáo csVN là một chế độ khủng bố, dã man, tàn ác dùng mọi thủ đoạn để đạt được quyền lợi riêng tư nhưng giỏi ma mị che đậy , tư lúc đâu cho đến ngày nay. với tòa thánh Vatican, với thế giới Văn minh cho thế hệ mai sau. để không bao giờ cs có thê quay lại nữa.
Lý Liêm Cypress, TX 09/14/2014

Bình luận về bài viết này

Filed under Uncategorized

TỈNH GIẤC ẢO MỘNG

Ảnh

 Ngang nhiên như nhà mình Trung Cộng ,ngày 02/05 mới lòi ra  đưa giàn khoan HD-981 vào vùng biển VN( thật ra nó đã làm từ hồi nào không biết, chỉ khi nào không che dấu được nữa, hoặc đến lúc cần công khai) chỉ cách huyện đảo Lý Sơn chỉ hơn một 100 hải lý , đảo Tri Tôn chỉ hơn 10 hải lý. Không phải là bước đầu tiên  hay là cuối cùng trong âm mưu thôn tính lãnh thổ, lãnh hải VN với sự tiếp tay của tập đoàn bán nước đảng csVN. ít ra là bắt đầu từ khi chúng bí mật ký kết với nhau ở cái gọi là  HỘI NGHỊ BÍ MẬT THÀNH ĐÔ 1990. từ đó đến nay đảng csVN đã trở thành tôi mọi cho chủ nhân ông đảng cs Trung Hoa thường gọi là Trung cộng . những năm đầu thì còn bí mật ít sơ hở,  nhưng  với sự mê ngủ, hay co mình tìm chốn an thân. hoặc bị mua chuộc, gài bẫy cấy ” sinh tử phù” của đa số có kiến thức tạm gọi là trí thức , các vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo. hoàn toàn làm ngơ trước hiện tình suy đồi , băng hoại, nguy cơ ngoại xâm  đất nước cũng như xã hội VN nhiều năm qua  .sự thật là sự thật  cũng như tiến trình bàn giao dần đất nước này cho TC mở đầu bằng Công Hàm Bán nước của Phạm Văn Đồng , hiệp định biên giới , Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, Trường sa, dẫn giặc vào  nhà qua dự án khai thác Bauxit, cho thuê đất rừng,   núp bóng các hiệp ước thương mại  đến nay không biết bao nhiêu sư  đoàn quân Tầu Cộng đang hiện diện trên đất nước VN, từ cực bắc đến  chí nam. Đồng thời  đàn áp bắt bớ bỏ tù bằng nhữ bản án phi pháp , đánh đập không nương tay thậm chí giết hại những luật Sư, trí thức , tu sĩ người dân yêu nước lên tiếng phản đối TC xâm lược , bè Hán nô lũ bán nước . trấn áp tất cả những tiếng nói đòi tự do , dân chủ nhân quyền, canh tân để  có sinh lực bảo vệ Tổ quốc.  thì đương nhiên, việc gì phải đến thì sẽ đến .

     Tiến trình xâm lược, bàn giao đất nước được tiến hành nhịp nhàng.  sau khi  thành lập  thành phố Nam Sa trên quân đảo Hoàng Sa, xây sân bay quân sư ở quần đảo Trường sa,  đưa quân đội ra trấn giữ, tuần tra xách nhiễu  tàu bè  , cướp phá ngư dân. không phải là chuẩu bị an ninh cho giàn khoan hôm nay  sao?  có  công ty nào mà lại bỏ vốn đầu tư vào vào chổ có chiến tranh hay  bất ổn chính trị không ? một quốc gia mà có xảy ra xung đột, bạo loạn chắc chắn các công ty nước ngoài sẽ rút lui hết. hơn nữa giàn khoan chỉ có thể họat động khai thác được ở những nơi yên bình, vùng phi quân sự .  Chỉ cần một quả hỏa tiển tầm ngắn là hàng tỉ đô chìm xuống biển .   Từ đó ta thấy rõ một khi TC quyết định  lắp đặt giàn khoan  trên vùng biển nước ta , là đã có một sự thỏa thuận ngầm, bảo đảm an ninh khá chắc chắn.  nói đến đây  chắc  không cần nói  tiếp, thì cũng biết phe nào thỏa thuận với nhau rồi đúng không!

 nhưng kịch bản phải được soạn sẵn, nhà cầm quyền csVN  cần phải  hung hăng cái miệng , hùng hổ  như thật tình sẵn sàng hy sinh xương máu(xương máu đám dân đen, con cháu bọn nó thì còn lâu)  bảo vệ Tổ Quôc. như ai đó cũng đã nói đừng đem xương máu đồng bào ra  dân cúng bọn TC, để mỵ dân.tiếp tục  bịp  bợm , hầu trường trị muôn năm với ông chủ Tàu.  chắc là bọn Tàu xâm lược cùng nhập vai đấu khẩu với csVN muốn chửi, rủa xả lên án nhau  cỡ nào cũng được. nhưng  để yên cho giàn khoan từ từ hoạt động , đặt dân VN vào chuyện đã rồi.  cần thì cho một vài va chạm nho nhỏ, như nói ở trên cần thì hy sinh một ít sinh mạng dân đen, chó săn của đảng cũng tốt. và nếu có dơ tay lên thì đập nát cái bọn ” phản động”  yêu nước chống ngoại xâm ấy.

mấy hôm nay nhìn bọn DLV, bọn biểu tình đảng  thuê thì biết  bọn nó đi phá ” biểu tình” thì có. diện toàn đồ đỏ áo đỏ, băng tay đỏ, mũ đỏ, băng rôn đỏ , cờ đỏ  mặt đỏ hung hăng con bọ xít , như một đoàn thú  tắm máu hô toàn khổ hiệu nào là “ĐCSVN quang Vinh”, “Hồ chủ tịch chết tiệt trong lòng chúng ta”….   gây sự với những người  thật sự nóng lòng trước họa ngoại xâm.

trong khi đó đảng vẫn “đeo đuổi” ( thực chất là đóng kịch để rước giặc vào sâu lãnh thổ VN)  phương cách cũ là ” đàm phán ngoại giao” . nhưng từ trước đến giờ đàm tới đâu mất tới đó. nhận diện được bộ mặt bán nước buôn dân của csVN .  chúng ta kêu gọi tất cả đồng bào , cảnh sát , quân đội không phải là chó săn của đảng cs, hãy thức giấc “ảo mộng” bắt tay , ủng hộ hay đứng cùng đảng csVN mà chống Tàu ngoại xâm. csVN không bao giờ chống Tàu Cộng, mà còn ” rước voi về dày mả tổ”.  Còn csVN thì tiền đồ tổ quốc lâm nguy, mất nước đang hiển hiện trước mắt mà tửng tên lảnh đạo cs là từng  tên gián điệp nguy hiển, cam tâm làm Hán nô bán nước.

đồng bào VN, cảnh sát , quân đội vì mình vì gia đình mình, vì tiền đồ quốc gia dân tộc nhất loạt đứng lên đòi  lại quyền tự quyết, tự chủ , tống cổ đảng cs đi, đoàn kết nắm chặt tay nhau nhờ bạn bè thế giới  may ra mới cứu đươc VN. Ơn Trên sẽ phù hộ, tổ tiên , hồn thiêng sông núi , anh linh các tử sĩ sẽ phù trì chúng ta   

 

 

Bình luận về bài viết này

Filed under Uncategorized

Chân phước Giáo hoàng Gioan Phaolô II làm chính trị

225039_126906037387864_126902134054921_187071_7355006_n[1]

 

 

ĐỨC CHÂN PHƯỚC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLỒ II
TRƯỚC  SỰ SỤP ĐỔ CỦA CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA.

Nhiều năm trước đây, sau khi Cộng Sản Liên Bang Sô Viết và Đông Âu sụp đổ trên mười mấy năm trước đó, chúng tôi có viết một bài liên quan đến ĐTC Gioan Phaolồ II, trong đó có người cho rằng Cộng Sản sụp đổ, nhờ có ĐTC Gioan Phaolồ II “làm chính trị”.

Để làm sáng tỏ vấn đề ĐTC thực sự như thế nào có “làm chính trị” hay “không làm chính trị”, trên cương vị của một nhà lãnh đạo tôn giáo, chúng tôi có trích lại đoạn phỏng vấn của hai ký giả Enzio Mauro và Paolo Mieli của tờ nhật báo La Stampa, một trong những nhật báo lớn nhứt nhì Ý Quốc như sau:

   – “Kính thưa Đức Thánh Cha, người ta đồn rằng Đức Thánh Cha làm chính trị, Đức Thánh Cha nghĩ sao?”.

   – “Tôi nghĩ rằng không thể hiểu chính trị theo nghĩa hẹp. Nhiệm vụ của Đức Giáo Hoàng là rao giảng Phúc Âm, nhưng trong Phúc Âm có con người. Sự tôn trọng đối với con người, tức là nhân quyền, tự do lương tâm và tất cả những gì thuộc về quyền sống xứng đáng của con người. Nếu tất cả những điều đó có một giá trị chính trị, thì đúng Đức Giáo Hoàng có làm chính trị. Nhưng Ngài luôn luôn đề cập đến con người, Đức Giáo Hoàng bênh vực con người” (Ezio Mauro e Paolo Mieli, “Giovanni Paolo II”, La Stampa 04.03.91, p.2).

Qua câu trả lời vừa kể, chúng ta thấy được ĐTC xác nhận phương thức “làm chính trị phải có” của ngài, cũng như của bất cứ một vị lãnh đạo tôn giáo ở cấp bậc nào, để “luôn luôn đề cập đến con người, Đức Giáo Hoàng bênh vực con người”.

Dĩ nhiên không phải chỉ có một mình ĐTC, một mình ngài ảnh hưởng  tác động phải có, như điều phải có của các vị lãnh đạo tôn giáo, làm cho Cộng Sản sụp đổ.

Nhiều nhân vật có kinh nghiệm trong chính trị cho rằng ảnh hưởng của ĐTC Gioan Phaolồ II đến việc sụp đổ của Công Sản chủ nghĩa chỉ là ảnh hưởng nhỏ nhặt, một phân nào đó, hay chỉ là ảnh hưởng phiến diện.

Điều đó, chúng ,tôi xin nhường lại cho các vị hiểu biết về chiến thuật, chiến lược, kinh tế, xã hội, ngoại giáo khai triển thêm chi tiết.

Ở đây chúng tôi chỉ muốn nói đến ảnh hưởng của ĐTC Gioan Phaolồ II qua động tác không ngừng rao giảng khắp nơi sứ điệp Phúc Âm, tín lý công giáo của ngài, sức mạnh mà không gì có thể thắng được trong trái tim con người.

Sự góp phần của ĐTC Gioan Phaolồ II cho sự sụp đổ Cộng Sản chủ nghĩa được thể hiện qua các động tác và lời giảng dạy của ngài, cũng như chính vì ngài, một Vị Lãnh Đạo Tối Cao của Giáo Hội Công Giáo lại là người đồng hương với  Thánh Stanislawvới chủ tịch Cộng Đoàn Lao Động Solidarnosc và với Leck Walesa, cho thấy dầu cục đá có cứng đến đâu đi nữa, sớm muộn gì rồi cũng sẽ bị đâm thủng và cũng cho thấy rằng Giáo Hội Công Giáo không cần dựa trên bao nhiêu sư đoàn để có thể chiến thắng trên sự ác, trên những gì ngược lại bản tính con người.

Và đây là câu nói của ĐTC Gioan Phaolồ II không lâu sau khi Cộng Sản ở Liên Bang Sô Viết sụp đổ:

   – “Chúng ta có thể nói rằng kinh nghiệm của giai đoạn vừa được kết thúc đã chứng minh ngược lại: tôn giáo và Giáo Hội đã tỏ ra là yếu tố giữa những yếu tố hữu hiệu nhứt để giải phóng con người một khỏi hệ thống  toàn trị hoàn toàn nô lệ hoá con người ” (ĐTC Gioan Phaolô II, Discorso per l’apertura dei lavori dell’Assemblea Speciale per l’Europa dei Sinodi dei Vescovi, 05.06.1990)

Đối với chủ thuyết Mác Xít và phương thức thực hành của người Cộng Sản, dĩ nhiên  ĐTC Gioan Phaolồ II không lên tiếng giảng dạy các chủ thuyết và các kỳ vọng giá trị mà thế giới Tây Âu ngưỡng mộ, trong đó

   – thế tục chủ nghĩa,

   – tự do xả láng chủ nghĩa (libertà sfenata),

   – tương đối chủ nghĩa

   – và được phép chủ nghĩa (permissivismo,  hay nề luân lý co giãn dây thung) đã tạo nên bóng tối lệch hình cho thế giới Kitô giáo.

Ngoài ra, mặc dầu ghi nhận những sai trái đã làm cho thế giới Cộng Sản chao đảo và sụp đổ ngoạn mục, ĐTC cũng đặc tâm lưu ý nói lên những nguy hiểm mà nhà thần học Michele Federico Sciacca gọi là “chủ thuyết tây âu” (occidentalismo) (Michele Federico Sicaccia, L’oscuramento dell’intelligenza, Marzorati, Milano 1970, II parte, 91ss), như những gì vừa kể.

ĐTC vẫn tiếp tục giảng dạy theo đường lối tín lý và mục vụ phận vụ giáo hoàng của ngài.

 

   1 – Trong buổi nói chuyện với Ngoại Giao Đoàn được Toà Thánh Vatican chấp nhận, ngày 13 tháng giêng năm 1990, ngài đã cảnh tỉnh các viên chức như sau:

   – “Varsavia, Moscou, Budapest, Berlin, Praga, Sofia và Bucarest, để chỉ đề cập đến các thủ đô, thực sự đã trở thành những chặn đường của cuộc hành hương lâu dài hướng về tự do. Chúng ta cần ngưỡng mộ đối với các dân tộc, mặc cho giá phải hy sinh bao la, họ đã can đảm bắt đầu cuộc hành trình nầy và ngưỡng mộ đối với các nhà chính trị có trách nhiệm đã tạo điều kiện thuận lợi cho ( …). Rất tiếc, quá thường xuyên nền dân chủ tây phương đã không biết dùng tự do đã đạt được trong quá khứ với các giá phải trả thật đau sót. Không thể thiếu cay đắng trách móc trước thái độ khiếm diện hữu ý, không màn gì đến luân lý siêu nhiên trong việc quản trị các xã hội “được gọi là phát triển”. Bên cạnh những phát triển rộng lớn về liên đới hỗ tương, bên cạnh lo âu thiết thực về thăng tiến công lý và một lo âu liên ủy về việc tôn trọng thực hữu các quyền con người, cần phải nhận thức được sự hiện hữu và lan tràn thái độ chống đối các giá trị, như chủ thuyết ích kỷ, tôn thờ tiền bạc như thần tượng, kỳ thi chủng tộc và chủ thuyết vật chất hoá thiết thực. Ước gì những người mới đến được tự do và dân chủ không bị làm cho thất vọng bởi những ai một cách nào đó là những đàn anh “bậc trưởng thượng”.    

   2 – Trong diễn từ của ngài trước Đại Hội Khoáng Đại Thánh Bộ Văn Hoá, ngày 12.01.1990, ĐTC Gioan Phaolồ II còn lưu ý:

   – “Môt vài bức tường đã sụp đổ. Một vài cửa biên giới đã được mở rộng (…). Một chủ thuyết cứu dộ trần thế đã đổ nát và trên thế giới đang nảy sinh ra lòng khao khát một niềm công lý mới (…). Tất cả đều đòi buộc phải có một nền văn minh mới đầy nhân bản, trong thời điểm hiện đại đặc ân mà chúng ta đang sống và niềm hy vọng bao la đó của nhân loại không thể bị lơ đãng bỏ rơi”.

Và ngài còn cảnh tỉnh:

   – “Không thiếu những rủi ro của ảo tưởng và thất vọng. Luân lý thế tục đã có kinh nghiệm về  những giới hạn của mình và khám phá  ra rằng con người bất lực trước những thí nghiệm khủng khiếp được thực hiện trên con người, bị coi như chỉ là những đồ vật đơn sơ của phòng thí nghiệm. Con người cảm thấy bị hăm doạ tận gốc rễ trước các đường lối chính trị tùy hỷ quyết định trên đời sống mình hay trên lúc nào mình phải chết, trong khi đó thì luật pháp của hệ thống kinh tế ảnh hưởng nặng nề trên đời sống gia đình mình. Khoa học thú nhân mình bất lực để trả lời cho những câu hỏi to lớn về đời sống, về tình yêu, đời sống xã hội và về cái chết. Và chính những người đặc trách Quốc Gia dường như cũng nghi ngại, không biết phải đi theo con đường nào để xây dựng thế giới hữu nghị và liên đới  tất cả mọi người đương thời chúng ta đang lớn tiếng đòi hỏi, trong quốc nội cũng như trên tầm mức địa lục”

Bởi đó, ngài kết luận:

   – “Chính phận vụ của người nam và người nữ có văn hoá phải suy tư đến tương lai nầy trong ánh sáng Kitô giáo mà họ đang ước vọng”.

   3 – Ở Bài Giảng trong Thánh Lễ cử hành tại thánh điện Velehrad, Chúa Nhật 22.04.1990, ĐTC chỉ dẫn:

   – “Đêm đã qua đi, ngày mới đã đến. Cuộc hành hương của Anh Chị Em hướng về tự do phải còn được tiếp tục. Anh Chị Em hãy bước đi như là con cái ánh sáng (Eph 5, 8). Nếu chỉ có tự do bên ngoài thôi, không có được cuộc giải thoát bên trong, tự do đó sẽ tạo nên hỗn loạn. Anh Chị em hãy ở lại trong tự do , mà vì tự do đó Chúa Kitô đã giải thoát Anh Chị Em (Gal 5, 1). Sự hiệp nhứt giữa tự do bên ngoài và tự do bên trong phải kiến tạo Âu Châu của ngày mai, nền văn minh tình thương và chân lý; và mối hiệp nhứt đó được đặt trên Chúa Kitô, viên đá góc tường. Anh Chị Em hãy tiếp tục bước đi hướng về tự do trọn hảo”. 

Bởi đó khuôn mẫu để đi theo không phải là khuôn mẫu của dân chủ hiện đại, được đặt nền tảng trên bất khả tri chủ nghĩa (agnosticisme) và trên tương đối chủ nghĩa (relativisme).

Giáo Hội Công Giáo luôn luôn tôn trọng tất cả các hình thức chính quyền, khi các chính quyền đó thực sự là chính quyền với đầy đủ ý nghĩa, nghĩa là khi họ tìm cách tạo được công ích, trong khi trái lại, Giáo Hội chưa bao giờ chấp nhận hình thức dân chủ tân tiến hiện đại (ĐTC Gioan Phaolô II, Il mio Evoluzione dêl concetto di democrăzia, in Quaderni di Cristianità, anno I, n.3. 1985, pp. 14-33).

Bởi vì nền dân chủ vừa kể không có gì hơn ngoài ra khuôn viên “tùy theo ý kiến”…..

    4 – Trong Thông Điệp Cenesimus annus, ĐTC Gioan Phaolô II xác định một cách minh bạch:

   – “Một nền dân chủ đích thực chỉ có thể có được trong một Quốc Gia pháp trị và dựa trên một quan niệm chính đáng về con người (…).

Ngày nay người ta có khuynh hướng xác nhận rằng bất khả tri chủ nghĩa và tương đối chủ nghĩa bi quan là triết lý và thái độ nền tảng đáp ứng lại các thể thức chính trị dân chủ, và có khuynh hướng xác nhân rằng bao nhiêu người xác tín mình biết được chân lý và chặt chẽ gắn chặt vào đó. Đó là những người không đáng tin cậy dưới nhãn quang dân chủ, bởi vì họ chỉ chấp nhận chân lý những gì được đa số đồng thuận chấp nhận hay có thể thay đổi tùy theo các đẳng cấp quân bình chính trị khác nhau. Về vấn đề vừa kể, cần lưu ý rằng,

   – nếu không có chân lý nào là chân lý tối thượng để hướng dẫn và định hướng động tác chính trị,

   – thì các ý kiến và các xác tính có thể dễ dàng bị lợi dụng cho mục đích quyền lực.

Một nền dân chủ không có các giá trị định chuẩn có thể dễ dàng trở thành thể chế toàn trị công khai hoặc giấu diếm mánh lới, như lịch sử chứng minh” ( CA, n. 46).  

(Để tránh cho bài viết quá dài, người viết xin tam bỏ qua các bài diễn văn  mà ĐTC gởi  các cộng đồng Kitô hữu Âu Châu về nền tảng căn nguyên của nền văn minh Âu Châu, mà đáng lý Âu Châu phải có, để tiếp tục tư tưởng của ngài trong Thông Điệp Centesimus annus, về sự thất bại Cộng Sản Chủ Nghĩa của Liên Bang Sô Viết và Đông Âu).

Đề cập đến những thay đổi mới xảy ra trước đó của Cộng Sản Chủ Nghĩa Liên Bang Sô Viết và Đông Âu, ĐTC cho biết không có gì sai sự thật hơn là coi tôn giáo như là yếu tố làm băng hoại con người, như  chủ thuyết Mác Xít đã chủ trương và thực hành:

  – “Chúng ta có thể nói rằng kinh nghiệm của khoảng thời gian vừa mới kết thúc, xác quyết sự thật hoàn toàn sai trái : bởi lẽ tôn giáo và Giáo Hội đã tỏ ra là những yếu tố hữu hiệu để giai thoát con người khỏi một hệ thống biến con người hoàn toàn thành nô lệ” (ĐTC Gioan Phaolô II, Discorso per l’apertura dei lavori dell’Assemblea Speciale per l?Europa del Sinodo dei Vescovi, 05-06.1990).

Cộng Sản đã sụp đổ ở Liên Bang Sô Viết và Đông Âu, ĐTC Gioan Phaolô II không cho đó là cuộc chiến thắng của ngài, cũng không phải trực tiếp do công sức của Giáo Hội, bởi vì ngài nghĩ rằng:

   – Giữa nhiều yếu tố làm cho các chế độ đàn áp bị sụp đổ, “yếu tố chính” đó là do :

   * sự vi phạm các quyền làm việc “

   * và “yếu tố thứ hai” (…) là tính cách bất hiệu năng của hệ thống kinh tế”,

nhưng đó không phải chỉ là vần đề kỷ thuật, đúng hơn đó là hậu quả của việc vi phạm các quyền có sáng kiến của con người, vi phạm đến quyền tư hữu và đến quyền tự do trong lãnh vực kinh tế” ( CA, 01.05.1991, n. 24).

 

Dầu như vậy, nhưng nguyên nhân đích thực

   – chính là tình trạng trống rổng thiêng liêng do vô thần chủ nghĩa tạo nên. Chủ thuyết đó đã làm cho bao thế hệ trẻ thiếu đinh hướng và trong không ít trường hợp, trong việc con người tìm kiếm, ước vọng  không thể nào loại trừ được, đó là tìm tòi chính căn tinh của mình và ý nghĩa của cuộc sống, Chủ thuyết vừa kể đã thúc đẩy các thể hệ trẻ khám phá ra các căn cội tôn giáo của văn hoá Quốc Gia họ và tìm ra được chính con người Chúa Kitô, như là câu trả lời nền tảng thoả đáng cho lòng hưóng thiện, ước muốn chân lý và đời sống trong tâm hồn của mỗi con người” (CA, n. 24).

Sự kiện là

   – “Trong công cuộc hoán chuyển đó, một sự cộng tác quan trọng, hay đúng hơn là quyết định, Giáo Hôi đã dấn thân cung cấp vào công cuộc đóng góp quan trọng để bênh vực và thăng tiến con người: trong những bối cảnh nặng trỉu ý thức hệ, trong đó trạng thái đứng về một phía làm lu mờ đi ý thức được phẩm giá chung của con người, Giáo Hội đã xác nhận một cách đơn sơ và đầy nghị lực rằng mỗi con người (…) mang nơi mình hình ảnh Thiên Chúa và bởi đó mỗi con người đáng phải được kính trọng. Xác tín đó thường đại đa số dân chúng nhận biết, và đó là điều khiến cho họ cùng  tìm ra những hình thức tranh đấu và những giải pháp chính trị tôn trọng hơn phẩm giá con người” (CA, n. 22). 

Nguyễn Học Tập

 

Bình luận về bài viết này

Filed under Uncategorized